Suy nghĩ
về “lao động rẻ” ở Việt Nam
Mặc
Thủy
Bài
báo “70% dân số Việt: ‘lao động rẻ’ là sự đau đớn” đăng trên mạng Vietnamnet ngày
21/10/2015 đã khiến cho dư luận nhớ đến bài “Việt Nam hãy học Ấn Độ xuất khẩu
Thạc sĩ, Tiến sĩ?” đăng trên Báo Đất Việt vào đầu tháng 9/2015, nói lên thảm cảnh
tương phản giữa đồng tiền và con người trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Đồng
tiền lưu hành hiện nay được giữ nguyên từ đợt đổi tiền năm 1985, với tờ bạc cao
nhất có mệnh giá 50 đồng. Đến năm 1994, tức 9 năm sau, tờ bạc có mệnh giá cao
nhất được in ra là 50.000 đồng, và vào năm 2003 Việt Nam đưa vào sử dụng tờ bằng
polymer, thì tờ bạc có mệnh giá cao nhất lên đến 500.000 đồng. Như vậy chỉ
trong vòng 18 năm, nếu chỉ xét về mặt chữ số, thì tờ tiền mệnh giá lớn nhất Việt
Nam đã tăng con số lên 10 ngàn lần, đồng nghĩa với giá trị của nó đã giảm đi với
số lần tương ứng.
Tương
tự với đồng tiền, giá trị của con người Việt Nam cũng không hơn bao nhiêu.
Trước
khi theo chân Liên Xô đổi mới vào cuối năm 1986, CSVN đã coi lao động trí tuệ là
những kẻ biếng nhác so với lao động cơ bắp, và một thời từng tìm cách xóa bỏ đội
ngũ trí thức ra khỏi xã hội, bắt ép hòa mình vào lực lượng công nông.
Họ
đảo lộn các thước đo giá trị xã hội, giá trị con người, giá trị học thức và giá
trị khoa học… để thay thế bằng cái gọi là chủ trương Hồng hơn Chuyên, tôn vinh lao
động cơ bắp của giai cấp công nông là đội tiên phong của xã hội.
Từ
năm 1992, khi bắt đầu chính thức áp dụng kinh tế thị trường, CSVN nhận ra tầm
quan trọng của đội ngũ trí thức, nên nới lỏng cánh cửa đại học và hé mở cơ hội
học tập cho người dân. Tuy nhiên, sau hàng chục năm sống dưới khuôn khổ của xã
hội chủ nghĩa, con người mang nặng tính “cơ hội”, nên sự vận hành nền kinh tế nói
chung là dựa trên mánh múng hơn là trí tuệ.
Trong
lãnh vực giáo dục, người ta đã chụp lấy thời cơ kiếm tiền, bằng việc mở trường
khắp nơi, kêu gọi đào tạo tràn lan không căn cứ nhu cầu xã hội, khiến cả nước
dư thừa cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ trong khi lại thiếu lực lượng công
nhân. Nhưng trình độ cử nhân, kỹ sư của nước ta lại quá yếu, đến nỗi một cán bộ
cao cấp Hà Nội đã phán rằng “kỹ sư Việt Nam không chế nổi một con ốc”.
Từ
đó, để có việc làm nuôi sống bản thân, các cử nhân, kỹ sư… phải chấp nhận thi tuyển
vào những vị trí công việc cơ bắp. Từ đó dẫn đến một hiện tượng đã trở thành phổ
biến là các cử nhân, kỹ sư ra trường chỉ có giá trị làm công việc cơ bắp.
Đó
là chưa nói hiện tượng bằng giả với mảnh bằng kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ giấy chiếm
một số lượng không ít trong hàng ngũ gọi là trí thức. Điều này càng khiến giá trị
của giới trí thức ngày một bị xã hội đánh giá thấp hơn.
Đương
nhiên giá trị con người Việt Nam xuống thấp cỡ nào khó có thể định lượng như sự
mất giá trị của đồng tiền hiện nay; nhưng nếu nhìn vào chính sách phát triển
kinh tế của nhà cầm quyền CSVN, điều mà họ chỉ có thể khoe với thế giới là “lao
động rẻ”.
“Hợp tác lao động” là nhóm từ được thịnh hành ở
Việt Nam
dưới thời khối Liên Xô còn tồn tại. Để trả nợ chiến tranh cũng như tìm công ăn
việc làm cho một số người, Hà Nội đã đưa hàng trăm ngàn công nhân sang lao động
tại Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu.
Sau
đổi mới, để thu hút đầu tư từ các nước Nam Hàn, Tân Gia Ba, Hồng Kông, Nhật Bản
vân, vân… Hà Nội quảng cáo “lao động rẻ” với việc phát triển những khu chế xuất
ngay ở trong nước. Nhưng sự thu hút này chỉ kéo dài một thời gian vì các công
ty ngoại quốc đầu tư cần tay nghề cao hơn nên Hà Nội lại phải tiếp tục chính sách
“xuất khẩu lao động” sang nước ngoài.
Tính
đến năm 2014, Việt Nam có khoảng 700 ngàn lao động làm việc tại bốn thị trường
lớn là Đài Loan, Mã Lai, Hàn Quốc và Nhật Bản, với mức lương chỉ bằng ¼ thu nhập
của người dân sở tại. Mặc dù yêu cầu chất lượng lao động cơ bắp của những nước
này không cao, nhưng do chất lượng giáo dục đào tạo của Việt Nam quá kém cỏi,
nên số lượng nhân lực đáp ứng được các tiêu chí về kỹ năng, kỷ luật, ngoại ngữ,
sức khỏe… của nhà tuyển dụng thì lại không nhiều.
Để
đối phó với thực trạng này, thay vì phải nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo,
cũng như giảm thiểu những tiêu cực trong việc tuyển chọn, những người đóng vai
trò cố vấn lại đề nghị một kiểu ứng phó không tưởng: Đó là ý tưởng xuất khẩu
các Thạc sĩ, Tiến sĩ sang làm việc cơ bắp tại Nhật Bản, thay cho những nhân
công lao động phổ thông hiện nay, nhằm giải quyết ít nhất được 2 tiêu chí đang
bị than phiền là kỷ luật và ngoại ngữ.
Ý
tưởng động trời này thể hiện một cái nhìn thiển cận, khi Hà Nội trực tiếp làm hạ
thấp giá trị con người Việt đối với các quốc gia khác bằng việc đặt những nhân
lực thuộc đội ngũ trí thức cao (được đào tạo trong thời gian nhiều năm) vào những
công việc cơ bắp thông thường.
Tóm
lại, hai bài báo đề cập bên trên cùng với chính sách lao động của Hà Nội hiện
nay khiến cho những người quan tâm đến tương lai đất nước không khỏi đau lòng
khi thấy rằng thực trạng mất giá của con người Việt qua hiện tượng “xuất khẩu
lao động” hiện nay không khác gì sự mất giá của đồng tiền Việt.
Mặc
Thủy
28/10/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét