Mười lý do khiến các nước tan rã
Các
quốc gia không thất bại sau một đêm. Hạt mầm sự sụp đổ nằm sâu trong thể chế
chính trị của các quốc gia này.
Foreign Policy
DARON ACEMOGLU và JAMES A. ROBINSON
Tháng 7/8 2012
Bản dịch của một thân hữu của viet-studies
Một số nước
thất bại một cách ngoạn mục, như sự sụp đổ hoàn toàn của mọi thể chế nhà nước tại Afghanistan sau khi quân đội Sô viết triệt thoái và
treo cổ tổng thống Mohammad Najibulla lên cột đèn, hay trong một cuộc nội chiến
kéo dài cả thập kỷ tại Sierra Leone, nơi chính phủ ngừng tồn tại hoàn toàn.
Tuy nhiên, sự tan rã ở đa số các nước khác đã không xảy ra với một tiếng nổ ầm nhưng với những rỉ rên thút thít. Những nước này thất bại không phải trong một sự bộc phát của chiến tranh và bạo lực mà vì họ hoàn toàn không thể khai thác tiềm năng tăng trưởng khổng lồ của xã hội họ, buộc
công dân của họ sống cả đời trong nghèo khó. Dạng thức thất bại chậm rãi nhưng xoáy nghiền này đã khiến
các nước Châu
Phi dưới Sahara, Châu Á và Mỹ Latin có mức sống thấp
hơn rất rất nhiều so với phương Tây.
Điều bi thảm là
thất bại này là hậu quả của một sự cố tình. Các quốc gia
này sụp đổ vì chúng được cai trị bởi các thể chế kinh tế mà chúng tôi gọi là
các thể chế “bòn rút” (extractive). Các thể chế này huỷ diệt động lực, cản ngăn đổi mới và làm héo mòn tài năng của người
dân bằng cách tạo
ra các sân chơi nghiêng lệch và cướp mất cơ hội của những người dân ấy. Sự hiện thực của các thể chế này không phải do lỗi lầm mà
là có chủ ý. Chúng tồn tại vì lợi ích của các thành phần tinh hoa (elites) là những người được lợi nhất từ sự bòn rút – dù đó là sự bòn rút dưới hình thức các khoáng sản đáng giá, lao động cưỡng bức, hay các độc quyền được bảo vệ ̶ mà toàn xã hội phải trả giá. Tất nhiên, những
thành phần tinh hoa ấy cũng hưởng lợi từ các thể chế chính trị thủ đoạn, dùng quyền lực của họ
để xô đẩy hệ thống về hướng có lợi cho họ.
Song, các nhà nước xây dựng trên bóc lột sẽ
không tránh được thất bại, kéo sụp theo toàn bộ hệ thống thối nát và thường đưa đến sự đau khổ mênh mông. Hàng năm, Chỉ số các quốc gia thất
bại[1] đưa ra các thống kê bi thảm của các quốc
gia thất bại. Dưới đây là chỉ dẫn của chúng tôi về 10 con đường mà sự thất bại diễn ra.
1. Bắc Triều Tiên: Không có quyền sở hữu
Các thể chế
kinh tế của Bắc Triều Tiên khiến người dân gần như không thể sở hữu bất cứ cái gì; nhà nước sở hữu mọi thứ, bao gồm hầu như tất cả đất đai và vốn. Nông nghiệp được tổ chức thông qua các trang
trại tập thể. Mọi người đều làm việc cho Đảng Lao động Triều Tiên chứ không
phải cho họ. Điều đó tiêu diệt động lực muốn thành công của họ.
Bắc Triều Tiên
có thể trù phú hơn nhiều. Năm 1998, một phái đoàn của
Liên Hợp Quốc nhận thấy
rằng nhiều máy
cày, xe tải, và máy móc nông nghiệp khác của quốc gia này đơn giản là không được sử dụng hay bảo trì. Từ những năm 1980, nông dân được phép sở hữu những thửa
đất nhỏ và bán
những gì họ trồng. Nhưng ngay điều này cũng không tạo ra nhiều khuyến khích vì sự
thiếu vắng rộng khắp các quyền sở hữu. Năm 2009, chính phủ đổi tiền và chỉ cho phép mỗi người dân đổi từ 100.000 đến 150.000 won[2] tiền cũ sang tiền mới (tương đương khoảng
30, 40 đô la Mỹ theo giá chợ đen). Những
người đã lao động và để dành bằng tiền cũ nhìn tiền tiết kiệm của
mình trở thành vô giá trị.
Bắc Triều Tiên
không chỉ thất bại về tăng trưởng kinh tế - trong khi Nam
Triều Tiên tăng trưởng rất nhanh – mà người dân của họ đơn giản cũng là thất bại trong việc trở nên trù phú hơn. Bị kẹt trong cái vòng xoay gây tê liệt này, Bắc Triều Tiên không chỉ nghèo hơn
rất nhiều so với Nam Triều Tiên, họ còn lùn
hơn (trung bình có thể đến 7,6 centimét) người láng
giềng phía nam mà họ
đã tách ra trong sáu thập kỷ qua.
2. Uzbekistan: Lao động cưỡng bức
Cưỡng bức là cách chắc chắn để thất bại. Tuy nhiên, cho đến gần đây,
chí ít là trong phạm vi lịch sử nhân loại, phần lớn các nền kinh
tế đều dựa vào sự cưỡng bức người lao động – nô lệ, nông nô và nhiều hình thức
lao động cưỡng bức khác. Sự thật là, danh sách các phương cách để bắt con người làm cái họ không muốn cũng dài như danh
sách các xã hội dựa
trên cưỡng bức. Lao động cưỡng bức cũng là nguyên nhân của sự thiếu đổi mới và tiến
bộ kỹ thuật trong đa số các xã hội này từ La Mã cổ đại cho đến miền Nam nước Mỹ.
Nước Uzbekistan
hiện tại là một ví dụ hoàn hảo cho thấy cái
quá khứ bi thảm ấy đã diễn ra như thế nào. Bông là một trong những hàng
xuất khẩu lớn nhất của Uzbekistan. Vào tháng 9, lúc bông đến vụ thu hoạch, các
trường học không một bóng trẻ em, tất cả bị cưỡng bức đi thu hoạch bông. Các
nhà giáo thay vì làm công tác giáo dục thì trở thành những người tuyển lao
động. Trẻ em được giao định mức thu hoạch từ 20 đến 60 kg bông mỗi ngày tùy
theo độ tuổi. Người được lợi chính từ hệ thống này là tổng thống Islam Karimov
và bầu bạn của ông ta, những người kiểm soát việc
sản xuất và bán bông. Người thiệt thòi không chỉ là 2,7 triệu trẻ em bị cưỡng
bức lao động mà còn là toàn xã hội Uzbekistan, một xã hội không thể vượt ra
khỏi sự nghèo khổ. Thu nhập bình quân đầu người ở đây không cách xa bao nhiêu
với mức thấp của họ khi Liên Xô sụp đổ, ngoại trừ thu nhập của gia
đinh Karimov, người đang thống trị ngành khai thác dầu khí ở nước này, là đang rất khá.
3. Nam Phi: Một sân chơi nghiêng
lệch
Vào năm 1904, công nghiệp khai khoáng đặt định một hệ thống đẳng cấp về việc làm tại Nam Phi. Từ khi ấy trở đi, chỉ những người Châu Âu mới được làm thợ rèn, thợ làm
gạch, thợ nồi hơi – cơ bản là bất cứ việc làm nào đòi
hỏi kỹ năng. "Rào cản
[da] màu" này, như người Nam Phi gọi nó, đã được mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế
vào năm 1926 và kéo dài cho tới những năm 1980, đã tước đoạt mọi cơ hội sử dụng
kỹ năng và tài năng của những người Nam Phi da đen. Họ bị buộc phải làm những
công việc không cần đến kỹ năng trong các hầm mỏ và trong nông nghiệp với mức
lương rất thấp. Điều đó mang lại lợi nhuận kếch xù cho giới tinh hoa - những người chủ sở hữu các hầm mỏ và các nông trại.
Chẳng có gì ngạc nhiên, Nam Phi dưới chế độ phân ly chủng tộc (apartheid) đã thất bại
trong việc cải thiện điều kiện sống cho 80% dân số của quốc gia này trong gần một thế kỷ. Trong vòng 15 năm trước khi chế độ
phân ly chủng tộc sụp đổ, nền kinh tế Nam Phi thậm chí còn co lại. Từ năm 1994 với sự thăng tiến của một nhà nước dân chủ,
nền kinh tế tăng trưởng đều đặn trở lại.
4. Ai Cập: Các ông lớn trở nên tham lam
Khi giới ưu tú kiểm soát nền kinh tế, họ thường sử dụng quyền của họ để tạo ra các độc quyền và ngăn cản sự xâm
nhập của những người
mới hay hãng mới. Đó chính là điều đã diễn
ra tại Ai Cập
trong suốt ba thập kỷ thời Hosni Mubarak. Chính phủ và quân đội sở hữu nhiều mảng lớn của nền kinh tế - khoảng 40% theo một số ước
tính. Ngay khi họ “tự
do hoá”, họ đã tư nhân
hóa một phần lớn nền kinh tế vào tay bạn bè của Mubarak hay của con trai ông ta
- Gamal. Các nhà kinh doanh lớn gần gũi với chế độ, ví dụ như Ahmed Ezz (trong
lĩnh vực sắt và thép), gia đình Sawiris (trong lĩnh vực
đa truyền thông, nước giải khát và viễn thông) và Mohamed Nosseir (trong lĩnh
vực nước giải khát và viễn thông) đã nhận được không chỉ sự bảo hộ của nhà nước
mà còn các hợp đồng của nhà nước và các khoản tín dụng lớn từ
ngân hàng mà không cần thế chấp.
Các nhà kinh
doanh lớn này được biết đến như những
con “cá voi”. Sự
nắm chặt nền kinh
tế trong tay của họ đã tạo ra lợi nhuận khổng lồ cho những kẻ bên
trong chế độ, nhưng lại ngăn chận cơ hội của đại bộ phận người dân Ai
Cập thoát khỏi nghèo khổ. Trong lúc đó, gia đình Mubarak tích lũy một tài sản
ước tính khoảng 70 tỷ đô la.
5. Áo và Nga: Giới quyền lực cản trở công nghệ mới
Các công nghệ
mới đặc biệt có tính phá hủy. Chúng quét đi các mô hình kinh doanh cũ và làm
cho các kỹ năng và các tổ chức hiện hành trở nên lỗi thời. Chúng phân phối lại
không chỉ thu nhập và của cải mà còn cả quyền lực chính trị. Đó là một động lực lớn khiến giới tinh hoa cố gắng ngăn chặn tiến bộ. Thế là tốt cho họ, nhưng không tốt cho xã hội.
Hãy xem cái gì
đã xảy ra vào thế kỷ 19, khi đường sắt đã lan rộng ra khắp nước Anh và nước Mỹ. Một
đề án xây dựng đường sắt được trình lên Francis I, hoàng đế nước Áo. Vẫn đang bị ám ảnh bởi bóng ma của Cách mạng Pháp 1789, ông ta trả lời: “Không, không, tôi sẽ không làm gì với
cái này hết, không thì cách mạng có thể vào nước ta.” Một
việc tương tự
cũng xảy ra ở Nga cho đến tận những năm 1860. Với
các công nghệ mới bị ngăn chận, chế độ Sa hoàng đã an toàn, ít nhất trong một
thời gian. Trong khi Anh và Mỹ phát triển nhanh chóng thì Áo và Nga đã không
được như thế. Đường ray nói
lên câu chuyện: vào những năm 1840, nước Anh
trong cơn sốt đường sắt với hơn 6000 dặm đường sắt được xây dựng, trong khi ở nước Nga mênh mông thì chỉ có một tuyến đường sắt. Thậm chí
tuyến đường đó cũng không được xây dựng vì lợi ích của dân Nga; nó dài 17 dặm
nối St. Petersburg với dinh thự hoàng gia tại làng Tsarskoe và Pavlovsk.
6. Somali: Không luật pháp và trật tự
Một điều nhất
thiết phải có cho một nền kinh tế thành công là một nhà nước trung ương hiệu
quả. Thiếu cái đó sẽ không có hi vọng gì về bảo đảm trật tự, một hệ thống luật
pháp hiệu quả và cung cấp các hàng hóa công cơ bản.
Thật vậy, hiện
nay phần lớn thế giới vẫn là các xã hội không có nhà nước. Mặc dù các quốc gia như Somali hay một quốc
gia mới là Nam
Sudan có chính quyền được quốc tế công nhận, các chính quyền này vẫn thực thi
rất ít quyền lực bên ngoài thủ đô của
họ, thậm chí có thể
là không có ngay ở thủ đô. Cả hai nước được xây dựng trên các xã hội mà trong lịch sử chưa bao giờ thiết lập được nhà nước trung ương,
nhưng bị chia thành
các thị tộc nơi các quyết định được đưa ra theo
sự đồng thuận giữa
những người đàn ông trưởng thành. Chưa một thị tộc nào có thể thống trị hay xây
dựng một bộ luật hay quy tắc được toàn quốc công nhận. Ở đó không có các chức vụ chính trị, không có các nhà hành chính, không có thuế, không có chi tiêu của
chính phủ, không có công an, không có luật sư - nói cách khác, không có chính phủ.
Tình trạng này
đã kéo dài trong suốt thời kỳ thuộc địa ở Somali khi mà người Anh thậm chí không thể thu được thuế thân, thường là nền tảng tài khóa
tại các thuộc địa của họ ở châu Phi. Từ khi độc lập vào năm 1960,
đã có nhiều nỗ lực nhằm thiết lập một nhà nước trung ương hiệu quả, ví dụ như dưới thời độc
tài của Mohamed Siad Barre, nhưng sau hơn năm thập kỷ thì có thể công bằng và thậm chí hiển nhiên mà nói rằng
những nổ lực ấy đều thất bại.
Điều này có thể gọi là quy luật Somali: không có một nhà nước
trung ương thì không thể có luật pháp và trật tự;
không có luật pháp và trật tự thì không thể có một nền kinh tế thực sự;
và không có một nền kinh tế thực sự
thì quốc gia chắc chắn sẽ thất bại.
7. Colombia: Một chính quyền trung ương yếu
Colombia không
phải là Somali. Dù vậy, chính phủ trung ương của Colombia đã không thể hoặc không muốn thực hiện sự kiểm soát đối với một nửa đất nước, nơi thống trị bởi các du kích cánh tả, nổi tiếng nhất là lực lượng FARC, và, ngày càng tăng, các nhóm bán vũ trang cánh hữu. Các ông trùm ma tuý có lẽ đang bị dẹp, nhưng sự vắng mặt của nhà nước trên phần lớn quốc gia đã dẫn đến không chỉ tình trạng thiếu thốn các dịch vụ công như đường xá và y tế mà còn thiếu vắng những
quyền sở hữu được xác định rõ ràng và thể chế hoá.
Hàng ngàn nông
dân Colombia chỉ có quyền sở hữu không chính thức hoặc quyền sở hữu không có
giá trị pháp lý. Mặc dù điều đó không làm họ ngừng mua bán đất, nhưng nó làm
suy giảm động lực đầu tư
của họ -- và sự không chắc chắn thường đưa đến bạo lực. Trong những năm 1990 và
đầu 2000, có khoảng 5 triệu hecta đất ở Colombia bị
cướp đọat, chủ yếu bằng súng đạn. Tình hình trở thành tồi tệ đến mức vào năm 1997, chính phủ trung
ương cho phép các nhà chức trách địa phương cấm các giao dịch về đất đai ở nông
thôn. Kết quả là thế nào? Nhiều vùng ở Colombia về cơ bản đã không thể tham gia
vào các hoạt động kinh tế hiện đại, thay vào đó là chìm sâu vào nghèo khó, và
khỏi phải nói tình trạng này mang lại những nơi ẩn trú mầu mỡ cho các lực lượng
nổi dậy vũ trang và bán vũ trang cả tả lẫn hữu.
8. Peru: Dịch vụ công tồi tệ
Calca và gần đó
là Acomayo là hai tỉnh của Peru. Cả hai đều nằm trên núi cao, đều là nơi cư trú
của các hậu duệ của sắc tộc Incas nói tiếng Quechua. Cả hai đều canh tác một
loại cây, nhưng Acomayo thì nghèo hơn Calca
rất nhiều. Tiêu
dùng của cư dân Acomayo ít hơn một phần ba so với cư dân ở Calca. Mọi người đều
biết thế. Ở Acomayo người ta hỏi những người ngoại quốc can đảm. “Bạn có biết
người ở đây nghèo hơn người ở Calca không? Tại sao bạn vẫn muốn đến đây?”
Thực vậy, đi đến Acomayo từ thủ phủ vùng Cusco, trung tâm của
đế chế Inca cổ đại, khó khăn hơn nhiều so với đi đến Calca. Đường đến Calca
được tráng nhựa trong khi đường đến Acomayo bị xuống cấp kinh khủng. Để đến Acomayo bạn cần ngựa hay lừa – chẳng phải vì khác
địa hình nhưng vì không có đường tráng
nhựa. Ở Calca người
ta bán ngô và đậu tương ra thị trường lấy tiền, trong khi ở Acomayo người ta
cũng trồng các loại cây đó nhưng chỉ để cho nhu cầu của bản thân. Kết quả là
người Acomayo nghèo hơn người Calca một phần ba. Cơ sở hạ tầng là quan trọng.
9. Bolivia: Bóc lột chính trị
Bolivia có lịch
sử dài lâu của các thể chế bòn rút bắt đầu từ thời kỳ thực dân Tây Ban
Nha, một lich sử đã gây oán hận
tăng lên từ năm này sang năm khác. Vào năm 1952, người Bolivia nhất tề đứng lên chống lại
giới ưu tú truyền thống, những người đang làm chủ
các hầm mỏ và ruộng đất. Các lãnh tụ của cuộc cách mạng này phần lớn là
những người thành thị bị loại ra khỏi quyền lực và sự đỡ đầu trong chế độ cũ. Một
khi giành được
chính quyền, những nhà cách mạng này tịch thu phần lớn ruộng đất và hầm mỏ và thành lập đảng chính trị - Phong
trào Dân tộc Cách mang (MNR). Sự bất bình đẳng giảm đi đáng kể nhờ kết quả tịch thu ruộng đất và cải cách giáo dục của MNR. Tuy
nhiên, MNR thiết lập nhà nước độc đảng và dần dần huỷ bỏ các quyền chính trị mà họ đã ban hành năm 1952. Vào cuối những năm 1960, bất bình
đẳng trên thực tế lại
cao hơn trước
cách mạng.
Đối với đại bộ
phận quần chúng ở nông thôn Bolivia, một
giới ưu tú này được thay thế bởi một giới ưu tú khác theo cái mà nhà xã hội học người Đức Robert Michels
gọi là “định luật sắt của chế độ hoạt đầu chính trị”. Nông dân vẫn chỉ có các quyền sở hữu
không được bảo đảm, họ vẫn phải bán phiếu bầu của mình để có thể có đất đai, tín dụng và việc làm. Chỉ khác là thay vì họ làm
như vậy với giới ưu
tú truyền thống
thì nay họ làm với MNR.
10. Sierra
Leone: Tranh giành lợi lộc
Sự bóc lột cực
lực sẽ gây bất ổn và thất
bại bởi vì, nhất quán với "định luật sắt của chế độ hoạt đầu chính trị", sự
bóc lột ấy sẽ tạo động lực cho các nhóm khác lật
đổ nhóm ưu tú hiện tại để đoạt quyền.
Đó chính là điều
đã xảy ở Sierra Leone. Siaka Stevens và đảng Quốc Đại Toàn Dân (APC: All People’s Congress) của Stevens
cai trị quốc gia ấy từ năm 1967 đến 1985 như một thái ấp của cá nhân ông ta. khi Stevens xuống và trao quyền cho Joseph Momoh, người được ông ta đỡ đầu, thì tình trạng cũng không thay
đổi gì mấy. Momoh tiếp tục cuộc cướp bóc.
Cái rắc rối là lối bòn rút này sẽ gây nên những bất mãn sâu đậm
và thúc giục những kẻ muốn thành “đầu
sỏ” giành lấy quyền lực, với hi vọng thò tay vào lợi lộc. Tháng 3 năm 1991, Mặt trận Cách mạng
Thống nhất của Foday Sankoh, với yểm
trợ và có lẽ cả sự chỉ đạo của nhà độc tài Liberia là Charles Taylor, đã vượt biên giới để vào Sierra Leone, đưa
nước này vào
một cuộc nội chiến bạo tàn kéo dài cả thập kỷ. Sankoh và Taylor
chỉ quan tâm đến một thứ,
đó là quyền lực, mà họ có thể dùng để chiếm đoạt kim cương, ngoài những mục tiêu khác. Họ có thể làm thế là nhờ chế độ mà Stevens và APC đã tạo dựng. Sierra
Leona nhanh chóng rơi
vào hỗn loạn, với nội chiến cướp đi mạng sống của khoảng 1% dân số và gây thương tích cho không biết bao nhiêu người khác. Nhà nước và các thể chế của
Sierra Leone hoàn toàn sụp đổ. Thu nhập
của chính phủ
giảm từ khoảng 15% tổng thu nhập quốc
gia xuống gần bằng
không vào năm 1991. Nhà nước, nói cách khác, không phải là thất bại mà là biến
mất hoàn toàn.
Daron Acemoglu
và James A. Robinson là đồng tác giả cuốn sách "Vì sao các quốc gia thất bại: nguồn gốc của quyền lực,
thịnh vượng và nghèo khó".
TS Nguyễn Quang A đã dịch cuốn sách này sang tiếng
Việt. Bạn đọc có thể đọc bản dịch tại đây: http://bayfiles.com/file/e9JX/chhWil/Vi_sao_cac_Quoc_gia_That_bai_Why_Nations_Fail.pdf
[1] Bảng chỉ số đánh giá thất bại của
các quốc gia được Tạp chí Foreign Policy và tổ chức Fund for Peace
công bố hàng năm
23-6-12
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét