Sửa đổi Hiến pháp dựa trên nền tảng nguyên
lý nào?
Thanh
Quang, phóng viên RFA
2013-01-28
Gần đây, dư luận đặc biệt quan tâm đến bản dự thảo Hiến Pháp đề
nghị của đông đảo trí thức mà báo giới nước ngoài xem như một hình thức
"cách mạng mềm" trong chính trường Việt Nam.
Một bức tranh cổ động kêu gọi người dân
Phát huy quyền làm chủ, ảnh chụp hôm
19 tháng 05 năm 2011 tại Hà Nội.
|
Phản ánh nguyện vọng nhân dân?
Bản dự thảo Hiến Pháp do giới trí thức đề nghị xuất hiện ngay sau khi
ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc Hội Việt Nam tuyên
bố "không có vùng cấm" nào đối với việc góp ý của toàn dân về việc tu
chính Hiến pháp năm 1992.
Nói chung, bản dự thảo Hiến pháp của giới trí thức đề nghị bỏ lời nói
đầu của bản Hiến pháp VN 1992 vì nó mang "tính chất vi hiến" là bị áp
đặt dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh, chứ
không thực sự phản ánh nguyện vọng nhân dân; đề nghị bỏ tên nước hiện
hành "CHXHCN Việt Nam "; đổi thể chế Chủ tịch sang Tổng thống chế; cho
các đảng phái đối lập đúng nghĩa tham chính; bảo vệ quyền làm người; tôn
trọng sở hữu tư nhân về đất đai; "rạch ròi" tam quyền phân lập; lực
lượng võ trang phải bảo vệ đất nước, nhân dân, chứ không phải trung
thành với đảng CS; cho trưng cầu dân ý về Hiến pháp... Còn về Điều 4
Hiến Pháp, ông Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức yêu nước
TP HCM, người ký tên trong bản kiến nghị dự thảo hiến pháp vừa nói, cho
biết:
Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu, nhưng nếu Điều 4 còn thì nó sẽ phủ định hết tất cả. Ô. Huỳnh Kim Báu
“Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu, nhưng
nếu Điều 4 còn thì nó sẽ phủ định hết tất cả. Vì họ độc quyền lãnh đạo
mà nếu họ ghi những điều đó đồng thời với Điều 4 thì Điều 4 sẽ phủ định
hết tất cả những gì thay đổi.”
Qua bài "Hành trình Hiến pháp Việt Nam dưới góc nhìn khoa học", tác
giả Trần Xuân Hoài nhận xét rằng tính cho tới giờ, không kể thời Trung
cổ, đã có 3 bản tuyên ngôn xã hội phổ biến nhất mà các xã hội loài người
dựa vào đó làm nền tảng Hiến pháp, đó là Tuyên ngôn Độc lập Mỹ 1776,
Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền Pháp 1791 và Tuyên ngôn CS 1848.
Liên quan vấn đề hiến pháp VN, theo GS Trần Xuân Hoài, thì bản Tuyên
ngôn độc lập mà ông Hồ Chí Minh tuyên bố ở Quảng trường Ba Đình ngày 2
tháng 9 năm 1945 là bản tuyên ngôn xã hội chính thức duy nhất của VN cho
đến nay, qua đó đưa những tiên đề xã hội của Tuyên ngôn độc lập Mỹ lên
ngay dòng đầu của bản Tuyên ngôn độc lập Việt Nam:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", và Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyên Pháp: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Tuyên ngôn độc lập Việt Nam đã khẳng định: Đó là những lẽ phải không ai
chối cãi được.”
Bìa sách Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 1992. Photo courtesy of chinhphu.vn |
GS Trần Xuân Hoài nhận xét rằng trong gần 70 năm "hành trình" của
Hiến pháp XHCN Việt Nam với các tiêu đề xã hội như bản Tuyên ngôn độc
1945 đã khẳng định thì " các quyền hiển nhiên như Độc lập, Tự do, Bình
đẳng, Dân chủ là những điều khắc sâu trong lòng Việt Nam tất phải thể
hiện thành lời trong Hiến pháp Việt Nam vì Hiến pháp là văn bản pháp lý
tối cao, với kỳ vọng là được bắt nguồn từ những lẽ phải không ai chối
cãi được". Nhưng "riêng 'Dân chủ' trong hành trình hiến pháp Việt Nam có
sự biến đổi bất thường nhất. Trong các phiên bản ban đầu, 1946, 1960,
phạm trù này được nhấn mạnh nhiều, sau đó thì giảm mạnh". Vấn đề là,
theo GS Trần Xuân Hoài, cơ sở xây dựng hiến pháp phải vì quyền lợi của
toàn dân, hiến pháp phải thực sự của toàn dân, phải được toàn dân chấp
nhận; "Khi Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở những lẽ phải không thể
chối cãi được, thì việc chấp thuận của toàn dân là một lẽ tự nhiên. Còn
khi cơ sở là những lý lẽ dễ bị chối cãi, dù cho Hiến pháp đó bằng cách
này hay cách khác tuyên bố được nhân dân chấp thuận, thì đó chỉ là sự áp
đặt khiên cưỡng. Một Hiến pháp như vậy chỉ là hình thức, chỉ để tuyên
truyền và tất nhiên không thể thực thi làm nền tảng cho sự phát triển
hài hòa, bền vững và thịnh vượng cho quốc gia, dân tộc".
Nghệ thuật phù phép ngôn từ
TS Hà Sĩ Phu nhận thấy "những gợi ý nhẹ nhàng và khách quan" của tác
giả Trần Xuân Hoài "khiến ta dễ dàng đạt tới những nhận thức vô cùng thú
vị", đó là:
1/ Tần suất những chữ "Độc lập”, “Tự do”, “Bình đẳng” thì tương
đối ổn định. Riêng từ “DÂN CHỦ” được nhấn mạnh trong Hiến pháp 1946,
nhưng sau đó thì liên tục “giảm mạnh” ! Đúng là Nhân quyền bị “teo dần
trong Hiến pháp”.
2/ Theo thời gian, sự giảm dần của yếu tố Dân chủ lại tương ứng với sự tăng dần của yếu tố Cộng sản và Chuyên chính...
Nếu ngay cả Hiến pháp cũng chỉ là bàn để cho vui thì không có cái gì trên đời này có thể được coi trọng. GS Hà Văn Thịnh
3/ Sự định danh lại vào Hiến pháp 1980 từ nhà nước dân chủ sang
nhà nước CHUYÊN CHÍNH, là một bước ngoặt lớn, hiếm có quốc gia nào có
được sự tự định danh chính thức là nhà nước CHUYÊN CHÍNH như Hiến pháp
1980 của nước ta. Từ một Hiến pháp năm 1946 dựa trên những tiên đề
“không ai có thể bác bỏ” đã du nhập thêm những tiên đề rất dễ bị bác bỏ,
nhiều người muốn bác bỏ. Càng củng cố được quyền lực, sự Chuyên chính
càng bộc lộ một cách trực diện, ngang nhiên và được pháp chế hóa thẳng
thừng.
4/ Chuyên chính tăng lên thì Dân chủ giảm đi là dễ hiểu, nhưng lạ
một điều càng Chuyên chính thì Hiến pháp càng tô rõ thêm hai chữ Nhân
dân...
TS Hà Sĩ Phu viện dẫn một bài báo trong tờ Quân đội nhân dân tựa đề "
Đừng nhầm lẫn từ 'nhân dân' trong Hiến pháp" để hiểu ngay rằng chỉ có
những người đi theo đảng CS làm cách mạng mới được giới cầm quyền cho là
"nhân dân", "nhân dân phải mang tính giai cấp". Nghĩa là, theo TS Hà Sĩ
Phu, các khái niệm "dân chủ" và "nhân dân " đã bị đánh tráo, và hai chữ
"độc tài" nghiễm nhiên hiện diện trong Hiến pháp qua hai chữ "chuyên
chính" của Trung Quốc, do "nghệ thuật phù phép ngôn từ", trong khi việc
nhập nhằng giữa khái niệm "nhà nước" với "chính quyền"; "quyền con
người" với "quyền công dân"; "quyền độc lập của một dân tộc" với "quyền
độc lập của mỗi cá nhân"...cũng là một "thủ thuật pháp lý láu cá". Và TS
Hà Sĩ Phu khẳng định "chừng nào việc soạn thảo và quyết định Hiến pháp
còn do một tập thể mà tuyệt đại đa số (trong tập thể ấy) là người của
một phe, một đảng thì… xin đừng tranh biện làm gì cho hoài công!
Lễ khai mạc Đại hội lần thứ 11 của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hà Nội ngày 12 tháng 1 năm 2011. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam |
Nhân chuyện sửa đổi Hiến pháp Việt Nam, GS Hà Văn Thịnh đề cập
"Vài nét về Hiến pháp Mỹ", lưu ý tới bậc tổ tiên của nhà nước Mỹ "đoan
quyết rằng phải thành lập một mô hình nhà nước hoàn toàn mới, không
giống với bất kỳ ai; và, quan trọng nhất, nó phải là nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân. Sáu chữ đó là sáu chữ vàng bởi nó trở thành nền
tảng, cội nguồn, nguyên tắc bao trùm mọi nguyên tắc trong suốt quá
trình soạn thảo Hiến pháp (của Hoa Kỳ)". Nhìn chung, theo GS Hà Văn
Thịnh, Hiến pháp Mỹ hình thành trên cơ sở "định hướng tìm tới sự hoàn
hảo cụ thể; được cụ thể hóa thành nhiều nguyên tắc lập pháp, chẳng hạn
như:
-Tạo dựng nền tảng Hiến pháp trường tồn bằng cách khẳng định rõ những
điều không bao giờ thay đổi như "quyền tư hữu là thiêng liêng bất khả
xâm phạm; quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; quyền
người dân ủy nhiệm cho chính quyền, nhân dân có quyền bầu và bãi nhiệm
chính quyền đó...". Còn những điều có thể thay đổi thì Hiến pháp dự trù
các khoản bổ sung gọi là "Tu chính án".
-Nhân dân Mỹ chọn mô hình nhà nước tam quyền phân lập giữa hành pháp,
lập pháp và tư pháp. Tòa án hoàn toàn độc lập, không bị bất kỳ áp lực
nào. Nhưng cũng có thiết chế cho người dân được quyền giám sát, quyết
định về phán quyết của tòa, chẳng hạn dưới hình thức Bồi thẩm đoàn.
-Thiết lập cơ chế ngăn chận mọi ý đồ thao túng và sửa đổi Hiến pháp
với "mưu đồ lạm quyền" của thiểu số cầm quyền. Theo nguyên tắc này,
quyền tham gia của mọi công dân là tối hậu.
-Mỗi đảng phái, trước Hiến pháp, chỉ là một tổ chức công dân, chịu sự điều chỉnh của luật pháp.v.v...
Nói chung, theo nhận xét của GS Hà Văn Thịnh, mô hình nhà nước Mỹ -
nhà nước hiện đại đầu tiên trong lịch sử loài người - "chưa thể tìm thấy
sự đối sánh nào khả dĩ hiệu quả hơn, đó là mô hình nhà nước chưa hề có
tiền lệ, với bản Hiến pháp, cho đến nay, là độc nhất vô nhị, trường tồn,
bất chấp sự thay đổi về thời gian và không gian". Thế còn VN thì sao?
GS Hà Văn Thịnh mong mỏi rằng:
“Việc lấy ý kiến đó không phải là chuyện hình thức, bởi một sự
thật giản dị: Nếu ngay cả Hiến pháp cũng chỉ là bàn để cho vui thì không
có cái gì trên đời này có thể được coi trọng! Một bản Hiến pháp khoa
học, nhân văn, phù hợp ý nguyện của toàn dân, xu thế của mọi thời đại,
chắc chắn là nguyên tắc, điều kiện đầu tiên cho sự phát triển vững
bền...”
Qua bài "Hiến pháp là nền tảng, còn nền tảng hiến pháp (thì sao) ?",
TS Nguyễn Sỹ Phương lưu ý tới hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo đều
dựa trên nền tảng kinh Koran, với 3 chủ thể: Vai trò lãnh đạo tinh thần
thuộc giáo chủ; nhà nước quyết định mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa...; người dân có bổn phận phải chấp hành, được củng cố
bằng tín điều Hồi Giáo trong kinh Koran.
Trong khi nền tảng Hiến pháp Hoa Kỳ thì chính người dân chứ không
phải ai hết là chủ nhân thực sự của đất nước, có toàn quyền định đoạt
Hiến pháp.
Và TS Nguyễn Sỹ Phương nêu lên câu hỏi " Vậy Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp ta hiện nay dựa trên nền tảng nguyên lý nào? Nguyên lý đó đã thực
sự xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân không ?"
Thanh Quang xin cảm ơn và kính chào tạm biệt quý vị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét