VĂN CAO : MỘT THIÊN TÀI BỊ LƯU ĐẦY
Trần Mạnh Hảo
Năm 2013 này là năm kỷ niệm 90 năm ngày
sinh của thiên tài văn nghệ Văn Cao -
người đã tự lưu đầy mình vào vĩnh cửu bằng ba tài năng lớn : hội họa, thi ca và
âm nhạc. Văn Cao nhà cải cách tiền phong cả ba nghệ thuật : hội họa, âm nhạc và
thi ca. Bài này chỉ nói về kiếp nhạc của Văn Cao.
“Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông
hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều
giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la
đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong
những thân phận riêng tư....”
| |
Không đợi khi xuân đến, tết về như dịp
này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ : “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi
viết cuối tháng 12-1975, hoàn thành
trong dịp tết Bính Thìn năm 1976. ( Xin quý bạn đọc vào công cụ tìm kiếm : www.google.com , rồi đánh tên bản nhạc để có
thể nghe rất nhiều ca sĩ hàng đầu hát bài : “ Mùa xuân đầu tiên” này).
Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất
trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng
đối lập, hòa trộn nước với lửa : vui ít,
buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn
ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít,
thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít,
khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ
ít, bơ vơ nhiều…
Hầu như tất cả các trạng thái tình cảm
trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này : ai vui hát lên
thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một
trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm
cùng mình…
Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất
hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt.
Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “ Mùa xuân đầu
tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.
Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay
:
“Rồi
dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa
bình thường mùa vui nay đã về
mùa
xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với
khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một
trưa nắng cho bao tâm hồn.
Rồi
dặt dìu mùa xuân theo én về
Người
mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa
xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước
mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm
vui phút giây như đang long lanh.
ôi
giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi
giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ
đây người biết quê người
Từ
đây người biết thương người
Từ
đây người biết yêu người .
Giờ
dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa
bình thường, mùa vui nay đã về.
Mùa
xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với
khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một
trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.”
Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có
nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm…nhưng sao hình ảnh
“khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian
của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh
thế, đơn độc có phần cô đơn thế ? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi
Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng
trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết
: “ một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông” :
Nhật mộ hương
quan hà xứ thị,
Yên ba giang
thượng sử nhân sầu.
(Trời về chiều
tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói
tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)
Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng
ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn
Cao nay : “ Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.
Bài hát như một điệu valse bằng nước
mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm
ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ;
sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu
dàng của nỗi thương đau, xót nhớ….
Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh
liên miên chưa từng có xuân về ? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu
tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa
từng thấy chim én báo xuân ? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã
hội không còn ai biết thương người ? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên
chính quê hương mình ? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh
cách mạng, không còn ai biết yêu con người ? Chừng như mấy mươi năm rồi con
người đã quên mình còn nước mắt ? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được
sưởi nắng mùa xuân ?
Và chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên
không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt
tác ? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao
thuê mỗi tháng 07 đồng, ( thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã
bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc ? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị súng đạn
thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù đặc, khi
tất cả các kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa (
Miền Bắc) cấm hát, trừ bài quốc ca ( kể
cả thơ Văn Cao cũng bị cấm) ?
Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời
Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây
đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng
ca hát : “Mùa xuân đầu tiên”
Chừng như nỗi niềm ngày 30 tháng tư năm
1975 : “ có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam
buồn” ( lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát : “ Mùa
xuân đầu tiên” của Văn Cao ? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa
nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước
mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu
máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức
nở nghẹn ngào thế ?
Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt
tác “ Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn giải phóng” in
trước tết Bính Thìn: 01- 01 - 1976, được
hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm ( 1976-2000).
Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao
này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất ( 1995) 05 năm, “ Mùa xuân đầu
tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ.
Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ
Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài
hát này :
“Sau
khi bài TIẾN VỀ HÀ NỘI ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê
phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa...
Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết
có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng...
Tôi
còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những
điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu
hoá” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm
cho nền âm nhạc Việt Nam.
Những
ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những
khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên
những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân
đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”.
Văn
Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.”
(trích bài “Văn Cao với ca khúc “Mùa
xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên “Tạp chí Sông Hương” số 179-180)
Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị
cấm ở Việt Nam
nhưng bên nước Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên Đài phát
thanh Matxcova :
“Nhưng
cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy MÙA XUÂN
ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100
Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó
lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có
được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.””
Qua tiết lộ trên của anh Văn Thao, con
trưởng nhạc sĩ thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời
luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “ bị vỗ vai” hỏi tên tuổi, xem
đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì ? Người viết bài này sau năm 1975 có
lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại : “Giờ thứ
25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu ( 1916-1992) mang ra từ Sài Gòn như
đã hứa, cũng đã từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu ? Bèn bảo : đi phỏng
vấn tác giả “Quốc ca” viết bài in báo cũng bị cấm à ? Người “ vỗ vai” hất đầu
cộc lộc : “Vào đi “.
Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù
nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã
hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn - Giai
Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “ bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm
nào đâu “.
Chúng ta lại được nghe người con trai
thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời của “ Mùa
xuân đầu tiên” :
“Đó là một đêm vào giữa tháng 12-1975. Chúng tôi đang
sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa đông Hà Nội rét tê tái. Cha
tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè
nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano - đối diện với chiếc
đivăng tôi đang ngủ.
Một giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn bởi một
bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội
Nhạc sĩ VN cho thuê lại với giá 7 đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi đó là 63
đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân
ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có
dịp dùng đến.
Bài hát đã được báo Sài Gòn
Giải Phóng số năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4 và thu
thanh ngay sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói VN, nếu tôi không nhầm thì
do ca sĩ Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói VN trình bày. Bài hát được
phát khoảng mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu
qua sóng phát thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng.
Như mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra
bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được
hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều
lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên sóng
truyền hình Việt Nam
năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm.”
Nhà
thơ NGHIÊM BẰNG
THU
HÀ ghi
Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong tác phẩm “
Đêm giữa ban ngày”, kể lại lời Văn Cao nói với ông về Tố Hữu hay Trường Chính
chủ trương đánh “Nhân Văn”, kể lại chuyện ông lãnh tụ Trường Chinh cho gọi
Nguyễn Tuân và Văn Cao lên cảnh cáo sau vụ “ Nhân Văn – Giai Phẩm” < *1 *>
(xem thú thích dưới bài )
Ảnh
: nhạc sĩ Văn Cao viết “Tiến quân ca” lúc 21 tuổi :
|
Với tất cả tội trạng tày trời do Xuân
Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi còn to hơn
tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang ( cùng bị án 15 năm tù giam,
05 năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ án chống đảng “ Nhân văn – giai phẩm”). Sở dĩ
Văn Cao thoát tù mọt gông vì ông chính là tác giả Quốc ca.
Ngay sau vụ “ Nhân Văn”, nhà nước cộng sản
tính lấy một bài hát “Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài quốc ca, thay
bài “ Tiến quân ca” của Văn Cao nhưng việc không thành. Mấy năm sau, năm 1981 nhà
nước mở cuộc thi quốc ca trong suốt hai năm, quyết thay bài hát của tên phản
động đang bất đắc dĩ dùng làm quốc ca; nhưng mấy trăm bài dự thi thay đổi quốc
ca, không bài nào được chọn ( vì quá tẻ nhạt) để thay thế bài ca lịch sử của
Văn Cao.
Nếu không có bài quốc ca che chắn, có lẽ
Văn Cao có thể đã chết trong tù Cộng sản? Một Văn Cao mềm mỏng, nồng nàn, say
đắm, lãng mạn tận cùng ( với các ca khúc bất diệt : “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”,
“Bến xuân”, “Trương Chi”, “ Thiên Thai”…) trong một Văn Cao tỉnh bơ, quyết
liệt, lạnh băng, thần kinh thép, thậm chí dữ dằn, sắt máu : “ thề ăn gan uống
máu quân thù” … “ đường ta đi xây xác quân thù”…đến cùng tận khi một mình một
xe đạp, đến tiệm hút thuốc phiện ở Hải Phòng, dương khẩu súng lục số 7165 của
tổ chức ( do Nguyễn Đình Thi trao) nhắm thẳng vào đầu Đỗ Đức Phin ( bị Việt
Minh cho là tay sai của Nhật) tuyên án từng lời đanh thép : tao bắn mày vì mày
là Việt gian tay sai giặc Nhật ! Đoạn, Văn Cao bóp cò súng cái đoàng, đầu Đỗ
Đức Phin nức toác, tóe máu; rồi ông thủng thẳng nhét súng vào thắt lưng, đủng
đỉnh đạp xe đi như đang dạo mát…
Sau này, cả cuộc đời còn lại, Văn Cao vô
cùng ân hận vì đã bắn chết một con người là Đỗ Đức Phin. Đến nỗi, sự sám hối
quằn quại khôn xiết này đã khiến ông không còn dám gõ lên piano những giai điệu
lãng mạn tuyệt đẹp thuở ban đầu kiểu “Suối
mơ”, “Bến xuân”… nữa; vì ông có cảm giác tay mình còn nhuốm máu đồng loại. Thế
mà, có những kẻ vô lương tâm, can dự vào việc giết chết hàng chục triệu đồng
bào vô tội của mình mà vẫn vênh mặt tự hào, chẳng một chút ăn năn sám hối !
Nghe nói Văn Cao còn bắn sẩy ( bắn hụt)
hai mật thám Nhật tại Hà Nội là Cung
Đình Vạn và Võ Văn Cẩm ( không biết có phải vì ông căm thù quân Nhật từng giết
bố vợ mình là cụ Nghiêm Xuân Huyến - một chủ báo, chủ xuất bản lớn Hà Nội từng
bị Nhật thủ tiêu trong tù ?). Một con người như thế không dễ gì thỏa hiệp, đầu
hàng, thà chết cho điều mình tin yêu hơn là phải sống như một chiếc bóng trong
suốt hơn ba mươi năm bị giam lỏng trong án tù thả rông : “Nhân văn - Giai phẩm”…
Có lần, Văn Cao kể cho người viết bài
này ( trong một bàn rượu đơn sơ “cuốc lủi”, lạc rang, đậu phụ mắn tôm, với bạn
tâm giao : nhà văn Mạc Phi, nhà văn Sơn Tùng…) rằng : “ Sau vụ Nhân Văn, anh em “chống đảng” chúng tôi, ngoài mấy người bị án
tù 15 năm, tất cả đều bị đi cải tạo lao động trên Tây Bắc. Trong chặng đường đi
đày trên tàu hỏa, dù tôi đang đau dạ dày nặng sắp chết vẫn bị điệu đi, mấy lần
tôi đã toan nhảy xuống đường tự tử khi tàu chạy, nhưng hình bóng đàn con lóe
lên trong đầu như ánh chớp, hình bóng bà Băng ( bà Nghiêm Thúy Băng – phu nhân
nhạc sĩ) còng lưng nuôi đàn con bơ vơ mất bố, tôi liền bỏ ý định tự sát để tiếp
tục sống hèn mà trở về nuôi con…”…
Có lẽ men “cuốc lủi” làm Văn Cao cảm
động, tay ông run run, kể tiếp : “ Thảm
nhất là khi ở nơi cải tạo lao động, đến bữa ăn, cứ thấy mình ngồi bàn nào là
anh em ( cùng bị đi đày lao động) lại tìm sang bàn khác ngồi, không ai chịu
ngồi cùng bàn ăn với kẻ đầu sỏ Nhân Văn, đến nỗi chị nuôi trại đi đày phải xẻ
một suất cơm ôi cá thối cho tôi ngồi một mình một bóng mà ăn cho khỏi chết đói
chứ nào có ngon lành gì …”…
Ngày 30 tháng tư 1975, ngày kết thúc 30
năm chiến tranh, theo mấy người con và mấy người bạn thân của nhạc sĩ kể lại,
Văn Cao im lặng không nói gì, không reo mừng hò hét vỗ tay vỗ chân rầm rập
trong hàng nghìn ca khúc khẩu hiệu điếc tai như phần lớn đồng nghiệp đã hét. Có
lẽ, ông nghĩ rằng, nhờ chiến thắng này mà có thể thân phận “ tù tại ngoại” của
ông cũng sẽ được giải phóng, thoát án giam lỏng nhân văn chăng ?
Dồn nén khát vọng tự do mấy chục năm,
dồn nén khát vọng hòa bình mấy chục năm, dồn nén khát vọng mùa xuân mấy chục
năm, dồn nén khát vọng thoát khỏi “nhà giam tư nhân” mấy chục năm, dồn nén khổ
đau buồn hận mấy chục năm, dồn nén oan ức bị chà đạp mấy chục năm, chợt một
sáng cuối đông, đầu xuân năm 1976, vỡ òa cảm xúc, vỡ òa nước mắt nhỏ giọt yêu
thương, nhỏ giọt mật đắng nghẹn ngào lên từng phím đàn thành giai điệu Văn Cao “ Mùa xuân đầu tiên”
chăng ?
Thành ra, “ Mùa xuân đầu tiên” chính là
lời reo vui của đắng cay, niềm rưng rưng kiếp nạn giải thoát, nỗi hoan ca ngục
tù gặp nắng gió mênh mông…?
Xin xem thêm tài liệu tổng kết vụ án “ Nhân
Văn - Giai Phẩm” (NVGP) của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại đã in công khai
trên rất nhiều trang mạng, để thấy thân phận của Văn Cao suốt ba mươi năm dưới
chế độ “ưu việt gấp triệu lần tư bản” thê thảm là dường nào < *3 *> ( xem chú thích cuối bài)
Qua
lời tự thú của vị đại tá công an phụ trách theo dõi văn hóa văn nghệ trên, ta
thấy số phận kẻ trọng tội NVGP bị lưu đày trong chính căn phòng mình, trên
chính quê hương mình của Văn Cao và các bạn hữu NVGP của ông hầu như đã bị tước
quyền công dân, tước hết quyền sáng tạo nghệ thuật, bị “giam tại nhà”, bị đấu
tố, bị làm nhục, bị cải tạo lao động hà khắc; không khác mấy so với những kẻ
thua trận Việt Nam cộng hòa bị tù tội trong danh phận học tập cải tạo sau năm
1975…
Không
thấu hiểu hoàn cảnh sống bị chà đạp, bị lăng nhục, vùi dập, bị đói khổ, bị mất
hết tự do nơi Văn Cao suốt ba mươi năm, chúng ta sẽ không cảm nhận được hết nỗi
vui của người tù vừa tìm thấy một khe hở gió nắng, được vụt lóe với khói trên sông , với tiếng gà trưa hiu
quạnh trong nỗi đau nghẹn ngào “ Mùa xuân đầu tiên” này…
Chính
nỗi đau buồn kia đã đẩy Văn Cao tới chân tường của cô đơn, lưu đày ông vào ly
rượu và khói thuốc. Chứng nghiện rượu đã giúp Văn Cao phần nào quên đi thực tại
thê thảm, giúp ông có nghị lực để sống qua thời thương khó. Nhiều đêm, không
ngủ được, thức khuya để tìm ảo giác trong men rượu, thấy bóng mình in trên
tường, Văn Cao chợt rùng mình hoảng sợ, ngỡ là công an mật nửa đêm xuyên tường đến
hỏi cung ông, suýt nữa làm ông co cẳng ù té chạy…
Suốt
một đời Văn Cao không chạy thoát khỏi bóng mình, không thoát khỏi kiếp lưu đầy thiên
bẩm của một nghệ sĩ lớn mà thời đại dường như không đủ chỗ cho mình tỏa bóng.
Đành thu bóng lại như con mèo nghệ thuật nằm cuộn tròn trong đống tro tàn cải
tạo tại gia mà ăn năn hối cải về tội chống đảng của mình.
Đâu
rồi chàng trai Văn Cao yêu đời, yêu người, tự do tự tại, thanh bình, phiêu lãng
miền thiên giới, thần tiên sống lẫn con người, lãng mạn tới tận cùng chân trời
góc bể trong những ca khúc tiền chiến tuyệt
tác ? Xin cùng nghe lại bản nhạc đầu tay tuyệt diệu của trang thiếu niên 16
tuổi, và xem lại lời của ca từ “ Buồn tàn thu” :
Buồn Tàn Thu
Ai lướt đi ngoài sương gió, Không dừng chân đến em bẽ bàng, Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng, Từ từ xa đường vắng. Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng. Em ngồi đan áo lòng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng. Người ơi còn biết em nhớ mong, Tình xưa còn đó xa xôi lòng. Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên Chim với gió bay về, chàng quên hết lời thề. Áo đan hết rồi, cố quên dáng người, Chàng ngày nào tìm đến? Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa Nhưng năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần. Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng.
“Buồn tàn thu” một nỗi buồn đẹp, trong veo dù tình
em tưởng “chết rơi theo lá vàng”. Cái buồn của tình yêu “ em thương nhớ chàng”
Văn Cao kết hợp hồn nhạc ngũ cung với chất khải huyền Thánh ca Thiên Chúa giáo rất
cổ thi; như người chinh phụ nhớ chinh phu “ Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm, như thần thiếp
nhớ quân vương “ Cung oán ngâm khúc” Nguyễn Gia Thiều, Kiều nhớ Thúc Sinh trong
mùa thu chết “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” Nguyễn Du thuở lục bát “ người lên ngựa, kẻ chia bào” của “ bụi hồng
dặm cuốn chinh an”…
Cái buồn của con người gặp cái buồn của trời đất,
rất “ mang mang thiên cổ sầu” Văn Cao. Chàng thiếu niên 16 tuổi đã ký thác đời
mình trong vàng thu lá chết, lấy lá vàng mùa thu làm chiếc diều của của nghệ
thuật muôn đời siêu thoát. Chàng tự lưu
đày mình vào mùa thu một cách tự nguyện. Chàng chết đuối theo vàng thu chìm
nghỉm để bất tử trong giai điệu du dương, sang trọng, như danh họa Nga gốc Do
Thái Levitan phó linh hồn cho mùa thu Nga vĩnh cửu sơn dầu…
Ngay từ 16 tuổi, bằng sự lãng mạn tận cùng qua “
Buồn tàn thu”, Văn Cao đã sung sướng được đắm chìm vào vương quốc Cái - Đẹp.
Chàng dùng nỗi buồn làm rượu, làm lương thực hằng sống nuôi dưỡng những giai
điệu du dương lãng mạn đẹp nhất của nền tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu trong
năm kiệt tác vô song :” Buồn tàn thu”, “ Suối mơ”, “ Bến xuân” ( lời Phạm Duy) “
Trương Chi” và “ Thiên Thai”…
Dường như năm bản nhạc lãng mạn trên là năm bản
thánh ca của tâm hồn con người, đưa ta thoát mọi phàm tục để được thánh hóa,
được thăng hoa tới muôn vàn mê đắm, thoát khỏi hận thù mà bất tử với thương yêu
? Bản tình ca của nỗi buồn, của Cái - Đẹp ban sơ được hát lên cùng thiên giới
thiêng liêng niềm hoài niệm trần thế; nơi suối nguồn róc rách mê ly chảy ra từ năm
dòng kẻ nhạc Văn Cao, theo giai điệu thiên thần réo rắt thanh tao kia mà rót
vào hồn ta hơi thở đất trời, rót vào tai ta chất men say của niềm ham sống, của
tin yêu và hoài vọng. Âm nhạc Văn Cao nâng cánh con người bay lên cõi đẹp, cõi mê,
cõi thần tiên, cõi hằng sống là vì thế chăng ?
Chừng như Văn Cao đã ngầm ký gửi thân phận mình vào
hai ca khúc lãng mạn một cách siêu nhiên có phần kỳ bí, huyền nhiệm : “ Thiên
thai” và “ Trương Chi”, vừa mang phong cách cao sang, nền nã, cổ điển của nghệ thuật Apollon - thần ánh
sáng và thi ca, vừa mang phong cách ma mị, xuất thần, cuồng si của nghệ thuật
Dionysos - thần rượu nho ( theo quan niệm về bi kịch Hy Lạp của Nietzsche) ?
Văn
Cao, ngay từ độ đôi mươi, đã tự đày ải mình lên miền thiên giới trong đại kiệt
tác “ Thiên Thai”. Cuộc nhập “Thiên Thai” ấy không chỉ có hai chàng Lưu Nguyễn
mà thực ra đã có ba chàng : người tham gia khí muộn vụ thiên hành lên cõi tiên
ấy chính là Văn Cao :
Tiếng ai hát
chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn
ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kià đường lên
tiên, kìa nguồn hương duyên
theo gió tiếng
đàn xao xuyến
Phím tơ lưu
luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu
mến như nước reo mạn thuyền
Âm ba thoáng
rung cánh đào rơi
Nao nao bầu
sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa
chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa
lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo
khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ
Đào Nguyên
Thiên Thai chốn
đây Hoa Xuân chưa gặp Bướm trần gian
Có một mùa đào
dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng
em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường
này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Đèn soi trăng êm
nhạc lắng tiếng quyên
đây đó nỗi lòng
mong nhớ
Này khúc bồng
lai
là cả một thiên
thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên
đời dương thế
Đàn non tiên đàn
khao khát khúc tình duyên
Thiên Thai! Ánh
trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên
em ngờ phút mê cuồng có một lần
Gió hắt trầm
tiếng ca tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày
xưa đó đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước
Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên
đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều
nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước
Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên,
Đào Nguyên nơi nao ?
Những khi chiều
tà trăng lên
Tiếng ca còn rền
trên cõi tiên
Văn
Cao và hai chàng Lưu Nguyễn đã nhập “ Thiên Thai” nghệ thuật. Nơi đó, Cái Đẹp
chính là tiên nữ, khởi nguồn mọi xúc cảm hồn người. Nghệ thuật, nói cho cùng
KHÔNG VỊ BẤT CỨ ĐIỀU GÌ, vì nó là cái chân thiện mỹ đã được thánh hóa, được
đóng dấu thiên giới cao sang. Tột cùng của nghệ thuật là sự thoát tục, sự thăng
hoa con người lên những thế giới khác, tâm hồn khác, rung động khác, mê ly khác,
ảo diệu khác… do con đò của tưởng tượng chở ta sang bờ bên kia của sự thật, bờ
bên kia của thế giới.
Những
giai điệu thần tiên mê ly hết mực Văn Cao đã đưa hồn ta du nhập cùng ba chàng
lãng tử Lưu - Nguyễn - Văn vào cõi trời. Thiên Thai ấy, tiên nữ ấy, nghê thường
ấy hóa ra không ở đâu xa, lại ở chính nơi hồn ta khi được âm nhạc thiên tài Văn
Cao đánh thức…
Văn Cao hóa thân vào bi kịch nghệ thuật Trương Chi,
hay chính hồn chàng Trương Chi đã ám lấy cuộc đời Văn Cao trong một ca khúc hay
đến rợn người, hay đến ngờ có ma trong giai điệu du dương chìm lắng, thê lương,
rờn rợn liêu trai, khuya khoắt ngồi nghe một mình có thể nổi da gà :
Một chiều xưa
trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không
gian mới rung thành tơ
Vương vất heo
may hoa yến mong chờ
Ôi, tiếng cầm ca
thu tới bao giờ.
Lòng chiều bơ vơ
lúc thu vừa sang,
Chập chùng đêm
khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim
rơi trong khúc nhạc vàng
Đây đó từng song
the hé đợi đàn.
Tây hiên Mỵ
Nương khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng
con đò trôi
Giai nhân cười
nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời
Anh Trương Chi
Tiếng hát vọng
ngàn xưa còn rung,
Anh thương nhớ.
Oán trách cuộc
từ ly não nùng.
Đò trăng cắm giữa
sông vắng.
Gió đưa câu ca
về đâu?
Nhìn xuống đáy
nước sông sâu.
Thuyền anh đã
chìm đâu!
Từng khúc nhạc
xa vời
Trong đêm khuya
dìu dặt tiếng tơ rơi.
Sương thu vừa
buông xuống
Bóng cây ven bờ
xa mờ xóa dòng sông
Ai qua bến giang
đầu tha thiết,
Nghe sông than
mối tình Trương Chi
Dâng úa trăng
khi về khuya,
Bao tiếng ca ru
mùa thu.
Ngoài song mưa
rơi trên bao cung đàn
Còn nghe như ai
nức nở và than,
Trầm vút tiếng
gió mưa
Cùng với tiếng
nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng
theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai
nức nở và than,
Cùng với tiếng
gió vương,
Nhìn thấy ngấn
nước lấp lánh in bóng đò xưa.
Đò ơi! Đêm nay
dòng sông Thương dâng cao
Mà ai hát dưới
trăng ngà
Ngồi đây ta gõ
ván thuyền,
Ta ca trái đất
còn riêng ta.
Đàn đêm thâu
Trách ai khinh
nghèo quên nhau,
Đôi lứa bên
giang đầu.
Người ra đi với
cuộc phân ly,
Đâu bóng thuyền
Trương Chi?
Bi
kịch Trương Chi chính là bi kịch của nghệ thuật, bi kịch cuộc đời, hơn nữa là
bi kịch của thiên tài và thời đại, bi kịch của Văn Cao và chế độ…Hình như Văn
Cao đã đổi vai cho chàng ca sĩ thiên tài Trương Chi trong câu chuyện cổ diễm
tình, được kể lại bằng hồn Văn Cao với giai điệu bi ca, khốc ca, hú ca, Mỵ
Nương ca ?
Hồn
Trương Chi u uẩn, u u trong gió sương vương vấn trên sông, đêm đêm đã lấy đi
hết nước mắt nàng Mỵ nương ân hận nghìn đời. Nay hồn ấy, tình đơn phương yêu
đến chết ấy lại nhập vào hồn Văn Cao với giai điệu sầu thương, nức nở, lấy đi
bao giọt khóc của người nghe nhạc hôm nay.
Thương
thay chàng Trương Chi Văn Cao đã dâng hiến cả tâm hồn và thân xác mình cho tình
yêu con người, cho tình yêu thời đại, yêu đến nỗi cuồng điên kiểu Xuân Diệu : “
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” nhưng đã bị thời đại đáp lại bằng “cú đớp
chính trị” Nhân Văn Giai Phẩm tàn mạt cả một đời .
Nàng
Mỵ Nương cuộc đời, nàng Mỵ Nương thời đại không chấp nhận tình yêu đơn phương
tận hiến ấy, yêu và ca hát như con ve tới chết cho nàng, vì nàng, một tình yêu
phi điều kiện, phi chính trị. Cũng như
Trương Chi, Văn Cao đã bị nàng Mỵ Nương - Thời đại phụ tình, hớp hết hồn chàng,
rút hết gan ruột chàng trong các ca khúc kháng chiến bất hủ : “ Trường ca Sông
Lô”, trong “ Tiến quân ca”, trong “ Làng tôi”, trong “Tiến vế Hà Nội”, trong “
Ngày mùa”… ăn ốc đổ vỏ, rồi nhốt chàng vào mật thất cô đơn như một huyệt mộ của
tự do trá hình có tên là căn gác chật hẹp 108 Yết Kiêu, Hà Nội, thuê 15 đồng
một tháng ( ở tù tại gia mà phải thuê a ?)…
Trương
Chi đã yêu, đã chết cho mối tình lý tưởng đơn phương, thân xác tan vào sông
nước và hồn hóa thành đá quý làm chén ngọc cho Mỵ Nương gieo nước mắt thương
tình thành sông. Văn Cao không ném thân xác mình vào cát bụi để được chết vì
yêu như Trương Chi; nhưng linh hồn ông, âm nhạc ông đã đang và mãi mãi sẽ được
người đời yêu thương đón nhận. Hồn Văn Cao còn hát mãi tiếng tuyệt vời Trương
Chi trên dòng sông âm nhạc, nơi sẽ có hàng nghìn Mỵ Nương xinh đẹp mong ước
chàng sống lại để hậu thế được yêu chàng như lời thơ R. Tagore vẽ hộ tình yêu
mai sau dành cho chàng Trương Chi - Văn Cao :
“
Nàng ơi / tất nhiên là nàng sẽ ra đời /
trong một thế kỷ nào đó / xin nàng tha thứ cho / nếu quả vì tôi kiêu hãnh / vẽ
dáng nàng đang đọc thơ tôi / khi trăng rọi im lìm qua khe chữ / tôi biết đêm
nay / dưới trăng mờ / nàng thắp đèn chờ / dù nàng biết chẳng bao giờ nhà thơ ( nhạc
sĩ - chua thêm TMH) đến nữa …” ( bản
dịch từ tiếng Anh của Cao Huy Đỉnh)
Tiền bối Văn Cao ơi !
Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của ông còn
sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang đầy chất thánh ca của
ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp phần cứu
chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự băng hoại
của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường nhật trìu
mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông : ANH VĂN; như
ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc. Vâng, anh Văn
suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng, cao cả này mà
thôi .,.
Sài Gòn ngày 23-01-2013
Trần Mạnh Hảo
Phần chú thích :
Chú thích <*1*> :
“Tố Hữu ấy à?
Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố
Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng
ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ
thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ
chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta
tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình
thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche (tiếng Pháp,
có nghĩa là cuộc quân hành dài, ý nói Trường Chinh) mới là kẻ sáng tác ra vụ
Nhân văn - Giai phẩm. Để chạy tội Cải cách ruộng đất. Để tạo ra cái hố rác mà trút
mọi tội lỗi của Lúy[2]
vào đấy. Chính Longue Marche
chứ không ai khác. Đừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình
và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng
tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn
Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất
cần đời. Đôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường
hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche:
"Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con
một. Đổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ
thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam
mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này
nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi
dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy
xu?.
Chú thích <*2*>
:
"Những
tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu
như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay
rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có
bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những
cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ.
(...)
Vào
đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại
là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất,
phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (...)
Trong
bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của
mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất;
hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:
Ngồi
đây ta gõ mạn thuyền
Ta
ca trái đất còn riêng ta! (...)
Những
ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ
trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước
“Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của
lòng yêu nước.
Nhưng
ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta
là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt
nhìn trong khói những kinh thành tan…
…
Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta
không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta
giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối
“Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ
nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn
mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân
Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!
Mấy
bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính
chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh,
pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài "Chiếc xe
xác qua phường Dạ Lạc", hay như bài "Ngoại ô mùa đông 46" (Văn
nghệ số 2, tháng 4-5/1948):
Ta
đi trong nhà đổ
Nghe
thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy
phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn
xiêm hài dành hương phấn cũ…
...
Chữ
Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió
lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy
cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard,
Heiddeger và Nietzsche… (...)
Giả
dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám,
bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên
công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với
ai là “chúng ta”?
Bao
giờ nghe được bản tình ca
Bao
giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao
giờ
Bao
giờ chúng nó đi tất cả (...)
Trên
đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc,
là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (...)
Những
con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành
dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù
chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ
đại!"
(Xuân Diệu, Dao có mài mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963, tr. 101-114.
Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, tài liệu Talawas)
Chú thích <*3*> :
“VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN CỦA ĐẠI TÁ CÔNG AN
Được đăng bởi nguyentrongtao
và VANDANVIET.COM
|
NTT:
Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công
tác tại A25 (chuyên theo giõi văn nghệ sĩ và văn hóa) đã gửi tới NTT.ORG một
chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm, và chúng tôi đã đăng làm 5 kỳ từ đầu
tháng 8/2010, được nhiều trang mạng đăng lại. Nay tác giả đã chỉnh sửa lại bài
viết của mình và nhờ NTT.ORG đăng lại trọn vẹn bài viết này. Các bạn hãy đọc nó
như đọc một “góc nhìn” về sự thật.
VỤ
NHÂN VĂN – GIAI PHẨM MỘT TRÀO LƯU DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC KHÔNG
THÀNH
LÊ
HOÀI NGUYÊN
Xin trích một số đoạn trong tài liệu này, để
chứng minh phong trào Nhân Văn Giai Phẩm 1955 -1958 chỉ là một trào lưu tìm dân chủ, tìm tự do
cho văn học nghệ thuật, không hề mang tính phản động, lật đổ chế độ như chính
quyền cộng sản đã vu cáo, để đàn áp các đồng chí của Văn Cao một cách khốc
liệt, như từng xảy ra mà đại tá công an
A 25 Thái Kế Toại đã chứng minh và kết luận một cách khoa học, thấu tình đạt
lý, khiến kẻ viết bài này miễn bình luận :
“Tác
giả ( tức đại tá công an A 25 Thái Kế Toại) tin rằng Nhân Văn – Giai Phẩm (NVGP)
không phải là một vụ án gián điêp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP
không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa
những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần
có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo…
…Còn
vụ án được đem xét xử công khai có thể nói đấy là một vụ án xử vì mục đích
chính trị chưa đủ chứng cứ cấu thành tội danh hoạt động gián điệp mà động cơ
của nó có thể có sự lợi dụng để khuất lấp tai tiếng và bảo vệ vị trí của chính
những người lãnh đạo Đảng đã mắc sai lầm trong CCRĐ
…Nội
dung bản án kết tội NVGP trong phiên xử án như sau:
“Chúng
là những tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành,hoạt động có tổ chức,
thực hiện âm mưu của địch, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lý đê hèn
nhất, những hoạt động phá hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ chúng
ta ở miền Bắc…”
…-
Nhà nước cộng sản huy động hầu hêt các phương tiện thông tin đại chúng của
chính quyền tham gia phê phán. Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Quân Đội Nhân dân, Tạp
chí Học Tập, Tạp chí Văn Nghệ, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Văn Nghệ Quân
Đội, Tạp chí Điện Ảnh… Đặc trưng của các cơ quan ngôn luận cộng sản là chỉ cho
phép sự phê bình chính thống, không cho phép người bị phê bình được nói lại…
…-Huy
động các cơ quan quản lý trí thức, văn nghệ sỹ tổ chức các cuộc kiểm thảo, phê
bình đấu tố những người tham gia NVGP, sau khi đấu tố đương sự phải viết bản tự
thú tội để công khai hóa trên các phương tiện tuyên truyền…
…-Sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ của hệ thống công an để bắt bớ, đàn áp...
…-Sử
dụng các biện pháp quản lý hành chính như khai trừ Đảng, khai trừ BCH khai trừ
hội viên các hội VHNT, treo bút không cho xuất bản tác phẩm có thời hạn hoặc
vĩnh viễn, cách chức, chuyển công tác, hạ lương, đưa ra khỏi biên chế, bắt buộc
cư trú ở những vùng xa Hà Nội, đưa đi cải tạo bằng lao động chân tay ở nông
trường, nhà máy, hợp tác xã nông nghiệp…
…-
Ngoài ra gia đình các đối tượng còn phải chịu sự đối xử khắc nghiêt của các cơ
quan quản lý xã hội và toàn xã hội như việc học hành, thi cử, phân công công
tác, lấy vợ lấy chồng…
…Đáng
lẽ có những hình thức kỷ luật chỉ có thời hạn vài ba năm nhưng cuối cùng kéo
dài cho tới thời kỳ đổi mới. Các đối tượng hết hạn tù và quản chế đang là công
dân bình thường nhưng vẫn bị quản lý như người mất quyền công dân…
Nói
chung là cái biện pháp tổng hợp ấy có một mãnh lực vô hình ghê gớm, nó làm tê
liệt mòn mỏi sức lực và tinh thần của một bộ phận trí thức tinh hoa trong thời
gian dài 30 năm…
…Năm
1958 là năm đen tối của họ (NVGP), bị đấu tố, kỷ luật, ngồi tù, cải tạo lao
động…
…Trong
thời gian này Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên có ghé
thăm Bắc Kinh, chứng kiến và có thể học hỏi các kinh nghiệm tổ chức phong trào
đánh phái hữu . Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh
nghiệm, chính sách của Trung Quốc…
...
Bản thân Trường Chinh cũng không thể đẩy cao hơn tốc độ cuộc chiến chống NVGP
vì ông ta không còn đầy đủ quyền lực như trước nữa…
…Phải
nói rằng ngôn ngữ văn học miền Nam
đã đi trước hiện đại hóa so với ngôn ngữ văn học miền Bắc mấy chục năm. Phải
chăng đó là hậu quả của việc thủ tiêu cuộc cách mạng văn học của NVGP?”
(
hết trích bài của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét