Chủ nghĩa tư bản và tình trạng bất
bình đẳng. Cánh Hữu và cánh Tả sai lầm ở những điểm nào (1)
Tháng 6 26, 2013
Jerry Z. Muller
Trần Ngọc Cư dịch
Procontra Tháng 6 26, 2013
Jerry Z. Muller
Trần Ngọc Cư dịch
Dẫn nhập: Trong
trận chiến ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, người ta
có thể nói không sai là chủ nghĩa tư bản đã thắng. Thậm chí một số nước
“cộng sản” như Trung Quốc và Việt Nam cũng đang ôm ấp một dạng thức nào
đó của chủ nghĩa tư bản, mà có người gọi là “tư bản nhà nước”, hay một
cách mỉa mai “tư bản đỏ”.
Dù dưới dạng thức nào đi nữa, ít ai
có thể chối cãi rằng chủ nghĩa tư bản là đường lối hữu hiệu nhất để tạo
ra đời sống thịnh vượng kinh tế cho xã hội loài người.
Trong bài tiểu luận sau đây, Giáo sư
Jerry Z. Muller phân tích những đặc tính bất biến của chủ nghĩa tư bản,
đó là tính năng động kinh tế cũng như tình trạng bất bình đẳng và bất
an kinh tế – những đặc tính luôn luôn đi với nhau như bóng với hình; như
cái Thiện và cái Ác cùng tồn tại một lúc trong thân phận con người. Để
đối phó với tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế đang diễn ra ngày
càng nghiêm trọng trong thế giới tư bản tiên tiến, đặc biệt tại Hoa Kỳ,
Muller nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì một chính sách nhà nước phúc
lợi hợp lý để đảm bảo sự ổn định và hài hòa xã hội, đồng thời chống lại
cả loại hình chính trị đặc quyền đặc lợi (politics of privilege) của
cánh Hữu lẫn loại hình chính trị sách động hận thù (politics of
resentment) của cánh Tả.
Trần Ngọc Cư
_______________
Tình trạng bất bình đẳng đang thực sự
gia tăng gần như khắp nơi trong thế giới tư bản hậu công nghiệp
(postindustrial). Và dù cho nhiều người bên cánh Tả có nghĩ gì đi nữa,
đây không phải là hậu quả chính trị, và chính trị không thể đảo ngược
được nó, vì vấn đề này có gốc rễ sâu xa và bất trị hơn người ta có thể
dễ dàng nhận ra. Bất bình đẳng kinh tế là một sản phẩm tất yếu của sinh
hoạt tư bản chủ nghĩa, và việc mở rộng cánh cửa bình đẳng về cơ hội cũng
chỉ làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng kinh tế mà thôi – vì một số
cá nhân và một số cộng đồng giản dị là có khả năng hơn các cá nhân và
cộng đồng khác trong việc khai thác những cơ hội mà chủ nghĩa tư bản
cung ứng để phát triển và thăng tiến trong đời. Tuy nhiên, dù cho nhiều
người bên cánh Hữu có nghĩ gì đi nữa, đây là một vấn đề chung cho tất cả
mọi người, chứ không riêng gì cho những người làm ăn thất bát hay những
người, trên bình diện ý thức hệ, quyết theo đuổi chủ nghĩa bình quân –
bởi vì nếu không được giải quyết, tình trạng bất bình đẳng và bất an
kinh tế ngày một gia tăng có thể xói mòn trật tự xã hội và tạo ra một
một phản ứng dân túy (populist) quật ngược lại hệ thống tư bản chủ nghĩa
nói chung.
Trong vài thế kỷ qua, sự bành trướng của
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một bước nhảy vọt vĩ đại trong tiến bộ loài
người, vừa đưa đến những tăng trưởng về mức sống vật chất mà trước đó
không ai tưởng tượng nổi, vừa đưa đến sự phát triển mọi tiềm năng chưa
từng thấy của con người. Nhưng, tính năng động nội tại trong bản thân
chủ nghĩa tư bản lại tạo ra một tình trạng bất an đi kèm với những lợi
lộc mà nó mang lại, vì thế sự tiến triển của chủ nghĩa này luôn luôn gặp
chống đối. Thật ra, phần lớn lịch sử chính trị và cơ chế của những xã
hội tư bản là lịch sử của những nỗ lực làm giảm bớt hoặc ngăn cản tình
trạng bất an ấy, và chính việc tạo ra nhà nước phúc lợi (the welfare
state) giữa thế kỷ 20 cuối cùng đã giúp chủ nghĩa tư bản và thể chế dân
chủ cùng tồn tại tương đối hài hòa.
Trong những thập kỷ gần đây, những phát
triển trong lãnh vực công nghệ, tài chánh, và thương mại quốc tế đã tạo
ra những làn sóng và hình thái bất an mới cho những nền kinh tế tư bản
hàng đầu, làm cho đời sống ngày càng trở nên bất bình đẳng và nhiều rủi
ro hơn, không những cho các tầng lớp hạ lưu và giới lao động mà còn cho
một bộ phận không nhỏ của giai cấp trung lưu. Cánh Hữu gần như nhắm mắt
làm ngơ trước vấn đề này, trong khi cánh Tả ra sức loại bỏ nó bằng hành
động của chính phủ, bất chấp phí tổn ngân sách. Cả hai đường lối này đều
không khả thi trong dài hạn. Các thể chế tư bản đương đại cần phải chấp
nhận rằng tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế sẽ tiếp tục là kết
quả tất yếu của các hoạt động thị trường và phải tìm cách che chắn
người dân khỏi những hậu quả nghiêm trọng của chúng – đồng thời bằng một
cách nào đó vẫn duy trì được tính năng động vốn tạo ra những lợi ích
kinh tế và văn hóa to lớn của chủ nghĩa tư bản.
Thương phẩm hóa (Commodification) và bồi dưỡng văn hóa
Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống gồm các
quan hệ kinh tế và xã hội được xác định bởi quyền tư hữu, bởi việc trao
đổi hàng hóa và các dịch vụ do những cá nhân tự do, và bởi việc sử dụng
các cơ chế thị trường để kiểm soát việc sản xuất và phân phối hàng hóa
và dịch vụ. Một số yếu tố tư bản chủ nghĩa đã tồn tại trong xã hội loài
người qua nhiều thời đại, nhưng mãi đến thế kỷ 17 và 18, tại nhiều nước
châu Âu và thuộc địa của chúng tại Bắc Mỹ, các yếu tố này mới kết hợp
thành lực lượng. Suốt lịch sử trước đó, gần như mọi hộ gia đình đều tiêu
thụ hầu hết những thứ tự mình sản xuất ra và sản xuất hầu hết những thứ
mà mình tiêu thụ. Mãi đến thời điểm này, đại đa số dân chúng tại một số
nước mới bắt đầu mua hầu hết những thứ mà họ tiêu thụ và họ làm được
điều này nhờ số tiền họ thu được từ việc bán hầu hết những thứ mà họ sản
xuất.
Sự phát triển các hộ gia đình theo định
hướng thị trường (market-oriented households) và cái gọi là “xã hội
thương mại” có ý nghĩa sâu sắc đối với mọi khía cạnh của sinh hoạt loài
người. Trước khi có chủ nghĩa tư bản, đời sống con người bị chi phối bởi
những định chế truyền thống luôn luôn đặt những lựa chọn và định mệnh
của cá nhân dưới sự khống chế của các cơ cấu cộng đồng, chính trị, và
tôn giáo khác nhau. Những định chế này cho phép xã hội thay đổi ở mức
tối thiểu, ngăn cản không cho người dân tiến bộ nhiều nhưng đồng thời
cũng che chắn họ khỏi những dâu bể của cuộc đời. Sự ra đời của chủ nghĩa
tư bản cho các cá nhân nhiều khả năng làm chủ và chịu trách nhiệm về
cuộc đời mình hơn bao giờ hết – điều này vừa khai phóng vừa đáng sợ,
khiến cả tiến bộ lẫn thoái hóa đều có thể.
Thương phẩm hóa (commodification) – sự
chuyển đổi các hoạt động được thực hiện để sử dụng riêng tư thành các
hoạt động được thực hiện để bán trên thị trường mở rộng – cho phép dân
chúng sử dụng thì giờ hiệu quả hơn, chuyên biệt hóa trong việc sản xuất
những thứ mà họ tương đối rành nghề và mua các thứ khác từ người khác.
Các hình thái thương mại và chế tạo mới đã sử dụng sự phân công
(division of labor) để sản xuất những mặt hàng gia dụng thông thường với
giá rẻ và cũng tạo ra một loạt hàng hóa mới. Như sử gia Jan de Vries
nhận xét, kết quả của sự kiện này là điều mà người đương thời gọi là
“một sự đánh thức những thèm khát của trí óc” – nới rộng những sở thích
cá nhân và tạo ra một cảm thức chủ quan mới mẻ về các nhu cầu. Sự bành
trướng nhu cầu đang diễn ra hiện nay đã từng bị những người bài bác chủ
nghĩa tư bản từ Rousseau đến Marcuse đả kích là đã giam hãm con người
trong chiếc lồng làm bằng những ham muốn phản tự nhiên (unnatural
desires). Nhưng nó lại được những người bênh vực kinh tế thị trường từ
Voltaire trở về sau ca ngợi là đã mở rộng tiềm năng của con người. Theo
quan điểm này, nỗ lực phát triển và đáp ứng những đòi hỏi và nhu cầu cao
hơn là yếu tính (essence) của văn minh.
Vì có khuynh hướng coi các thương phẩm
(commodities) là vật thể hữu hình, chúng ta thường bỏ qua cái mức độ mà
việc tạo ra và phân phối ngày càng rẻ các thương phẩm văn hóa mới đã mở
rộng, những gì mà ta có thể gọi là “các phương tiện trau dồi bản thân”
(the means of self-cultivation). Vì lịch sử của chủ nghĩa tư bản cũng là
lịch sử phát triển truyền thông, thông tin, và giải trí – vừa là phương
tiện vừa là đối tượng của tư duy (things to think with, and about).
Trong số những thương phẩm hiện đại xuất
hiện sớm nhất, phải kể đến các ấn phẩm (ví dụ đầu tiên là cuốn Kinh
Thánh), và việc chúng ngày một rẻ và dễ kiếm còn có ý nghĩa lịch sử hơn
cả sự phát triển của máy nổ, chẳng hạn. Điều này cũng đúng với sự phổ
biến của giấy in, cho phép nhật báo và tạp chí ra đời. Những phát kiến
này lại làm phát sinh các thị trường mới về thông tin và nghề thu thập
và phân phối tin tức. Vào thế kỷ 18, việc đưa tin từ Ấn Độ đếnLondonphải
mất hàng tháng; ngày nay, chỉ cần trong chốc lát. Sách báo và tin tức
đã giúp nới rộng không những tầm hiểu biết mà còn phát triển trí tưởng
tượng của chúng ta, khả năng thông cảm với đồng loại và tưởng tượng như
thể chính bản thân chúng ta đang được sống trong những lối sống tân kỳ.
Chủ nghĩa tư bản và tiến trình thương phẩm hóa vì vậy đã thúc đẩy cả chủ
nghĩa nhân đạo lẫn các hình thức mới mẻ trong việc tự phát minh chính
mình (new forms of self-invention).
Trong thế kỷ vừa qua, các phương tiện
bồi dưỡng văn hoá được phát triển nhờ việc phát minh máy ghi âm, phim
ảnh, và truyền hình, và cùng với sự trỗi dậy của Internet và máy vi tính
trong nhà, những chi phí của việc tiếp thu kiến thức và văn hoá đã giảm
bớt nhanh chóng. Đối với những người nằm trong xu thế này, việc phát
triển các phương tiện bồi dưỡng văn hóa đã tạo điều kiện mở mang kiến
thức của con người ở mức gần như không thể tưởng tượng nổi.
Gia đình đóng vai trò quan trọng
Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa tư bản đã mở ra
nhiều cơ hội hơn bao giờ hết cho sự phát triển tiềm năng con người, thì
không phải ai cũng có thể tận dụng những cơ hội ấy hay có thể tiến xa
hơn nữa sau khi nắm được cơ hội. Chẳng hạn, lịch sử đã chứng minh, nhiều
rào cản chính thức hoặc không chính thức đối với sự bình đẳng về cơ hội
đã ngăn cản nhiều bộ phận dân chúng khác nhau – như phụ nữ, dân tộc
thiểu số, và giới nghèo – không cho phép họ hưởng đầy đủ tất cả những gì
mà chủ nghĩa tư bản cống hiến. Nhưng qua thời gian, trong thế giới tư
bản tiên tiến, những rào cản ấy đã dần dần được hạ thấp hay tháo gỡ, nhờ
vậy ngày nay người ta có thể tiếp cận cơ hội đồng đều hơn bao giờ hết.
Tình trạng bất bình đẳng đang tồn tại ngày nay, do đó, phát sinh vì
thiếu cơ hội đồng đều thì ít, mà vì khả năng không đồng đều trong việc
khai thác cơ hội thì nhiều. Và khả năng không đồng đều đó lại phát xuất
từ những khác biệt trong tiềm năng bẩm sinh mà các cá nhân có từ khi
chào đời và trong cung cách mà gia đình và cộng đồng giúp đỡ và khuyến
khích tiềm năng con người phát triển.
Trong việc hình thành khả năng và khuynh
hướng của cá nhân để vận dụng các phương tiện bồi dưỡng văn hóa mà chủ
nghĩa tư bản cung ứng, đề cao vai trò của gia đình đến đâu cũng không
đủ. Hộ gia đình không chỉ là nơi tiêu thụ và truyền giống. Nó còn là bối
cảnh chính trong đó trẻ em được xã hội hóa, được giáo dục, và trở thành
văn minh, trong đó các thói quen của chúng được phát triển để sau đó
lại ảnh hưởng đến số phận chúng trong tư cách người dân và tác nhân thị
trường Theo ngôn ngữ của kinh tế học đương đại, gia đình là một workshop (phân xưởng) trong đó vốn con người (human capital) được tạo ra.
Qua thời gian, gia đình đã ảnh hưởng đến
chủ nghĩa tư bản bằng cách tạo ra những nhu cầu mới đối với những hàng
hoá mới. Gia đình cũng thường xuyên bị chủ nghĩa tư bản khuôn nắn vì
những hàng hóa mới và phương tiện sản xuất mới đã thúc đẩy các thành
viên trong gia đình sử dụng thời gian theo lối mới. Vào thế kỷ 18, khi
các hàng tiêu thụ mới bắt đầu xuất hiện với giá rẻ hơn bao giờ hết, các
hộ gia đình dồn nhiều thì giờ hơn cho các hoạt động theo xu thế thị
trường, với tác động tích cực đến khả năng tiêu thụ của họ. Mặc dù ban
đầu đồng lương của đàn ông có lẽ đã thực sự suy giảm, nhưng lương của cả
vợ, chồng, con cái cộng lại đã nâng tiêu chuẩn tiêu thụ (standards of
consumption) cao hơn trước. Nhưng, việc tăng trưởng kinh tế và mở rộng
các chân trời văn hóa không cải thiện mọi phương diện của đời sống cho
mọi người. Việc con cái của giai cấp lao động có thể kiếm tiền từ tuổi
vị thành niên đã khuyến khích chúng sao lãng học hành và sự thiếu lành
mạnh của một số hàng hoá mới xuất hiện (bánh mì trắng, đường, thuốc lá,
rượu mạnh) cho thấy tiêu chuẩn tiêu thụ tăng cao không luôn luôn đồng
nghĩa với sự cải thiện sức khỏe và tuổi thọ con người. Và khi thời gian
lao động của người phụ nữ được tái phối trí từ việc phục vụ gia đình
sang phục vụ thị trường, các tiêu chuẩn vệ sinh có vẻ suy giảm, gia tăng
rủi ro bệnh tật.
Cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, người
ta chứng kiến sự phát triển từng bước của các phương tiện sản xuất mới
khắp các khu vực kinh tế. Đây là thời đại cơ khí, có đặc tính là các
nguồn lực vô cơ (chủ yếu là máy hơi nước) ngày càng thay thế các nguồn
lực hữu cơ (người và súc vật), một tiến trình đã gia tăng năng suất rất
lớn. Khác hẳn trong một xã hội chủ yếu dựa vào nông nghiệp và tiểu công
nghệ gia đình, việc chế tạo hàng hoá bây giờ ngày càng diễn ra trong
những công xưởng được xây dựng chung quanh các cỗ máy tân kỳ nhưng quá
kềnh càng, quá ồn ào, và quá dơ bẩn, không thể chứa trong nhà. Công ăn
việc làm do đó ngày càng tách khỏi hộ gia đình, một chuyển biến rốt cuộc
đã thay đổi cơ cấu gia đình.
Thoạt đầu, các chủ nhân của những nhà
máy công nghiệp hóa mới mẻ này đã tuyển dụng phụ nữ và trẻ em vào làm
công nhân vì họ là những người dễ sai bảo và dễ kỷ luật hơn đàn ông.
Nhưng vào nửa sau của thế kỷ 19, người nam công nhân trung bình ở Anh
được hưởng sự gia tăng đáng kể và bền vững của đồng lương đích thực; vì
vậy, một sự phân công mới đã diễn ra ngay trong phạm vi gia đình, theo
đường ranh giới tính. Nhờ sức mạnh thể chất cho họ một ưu thế tương đối
trong việc sản xuất, nam giới ngày càng làm việc đông đảo trong các nhà
máy với đồng lương thị trường đủ cao để nuôi cả gia đình. Tuy vậy, thị
trường của thế kỷ 19 chưa thể cung cấp những hàng hóa để tạo ra sự sạch
sẽ, vệ sinh, các bữa ăn bổ dưỡng, và việc trông nom chu đáo các trẻ em.
Trong giới thượng lưu, những dịch vụ này có thể được đầy tớ cung ứng.
Nhưng đối với hầu hết mọi gia đình, những dịch vụ này ngày càng được các
bà vợ cung ứng. Tình trạng này đã phát sinh ra mô hình gia đình chồng
đi kiếm cơm – vợ lo nội trợ (the breadwinner-homemaker family), dựa trên
sự phân công theo giới tính. Theo de Vries, nhiều cải tiến về sức khỏe,
tuổi thọ, và giáo dục từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, có thể được
lý giải bởi việc tái phân bố (realloacation) lực lượng lao động phụ nữ
từ thị trường về với hộ gia đình và, sau cùng, tái phân bố giới thiếu
niên từ thị trường về với học đường, khi trẻ em rời bỏ lực lượng lao
động để đến trường.
Tính năng động và sự bất an
Trong phần lớn lịch sử nhân loại, cội
nguồn chính cho nỗi bất an của con người là thiên nhiên. Như Marx nhận
xét, trong những xã hội như thế, hệ thống kinh tế hướng đến ổn định – và
bế tắc. Những xã hội tư bản, trái lại, từ trước đến nay vẫn hướng tới
sáng kiến và tính năng động, tới sự sáng tạo tri thức mới, sản phẩm mới,
phương thức sản xuất và phân phối mới. Tất cả những điều đó đã chuyển
vị trí của tình trạng bất an từ thiên nhiên sang kinh tế.
Hegel đã nhận xét vào những năm 1820
rằng đối với con người trong một xã hội thương mại đặt cơ sở trên mô
hình chồng kiếm cơm-vợ lo việc nhà (the breadwinner-homemaker model), ý
thức về giá trị bản thân và thế giá của mỗi người được gắn liền với công
ăn việc làm. Điều này đặt ra một vấn đề, vì trong một nền kinh tế thị
trường tư bản năng động, thất nghiệp là một khả năng hiển nhiên. Sự phân
công lao động do thị trường tạo ra có nghĩa là nhiều công nhân có các
kỹ năng được chuyên biệt hóa cao độ (highly specialized) và chỉ thích
hợp với một số công việc rất hạn hẹp. Thị trường tạo ra những nhu cầu
thường xuyên thay đổi, và do đó khi nhu cầu đối với sản phẩm mới gia
tăng thì nhu cầu đối với sản phẩm cũ giảm bớt. Những người có cuộc đời
gắn bó với một vai trò nhất định trong việc sản xuất ra những sản phẩm
lỗi thời thường bị thất nghiệp và không có tay nghề để kiếm việc làm
mới. Và việc cơ giới hóa hoạt động sản xuất cũng dẫn đến nạn thất
nghiệp. Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu, tính sáng tạo và sự đổi mới
trong chủ nghĩa tư bản công nghiệp đã đi đôi với nỗi bất an của các
thành viên trong lực lượng lao động như bóng với hình.
Marx và Engels đã phác họa tính năng
động, nỗi bất an, sự cải tiến các nhu cầu, và việc mở rộng các khả năng
văn hóa của chủ nghĩa tư bản trong Tuyên ngôn Cộng sản như sau:
“Thông qua việc bóc lột thị trường
thế giới, giai cấp tư sản đã cho sản xuất và tiêu dùng một tính chất
quốc tế. Nó rút phắt nền tảng quốc gia trụ dưới chân công nghiệp, khiến
các thế lực phản động cực kỳ khó chịu. Các ngành công nghiệp quốc gia
lâu đời đã bị tiêu diệt và đang hàng ngày bị tiêu diệt. Chúng bị choán
chỗ bởi những ngành công nghiệp mới mà sự xuất hiện trở thành một vấn đề
sống còn với mọi quốc gia văn minh, những ngành công nghiệp không còn
sử dụng nguyên liệu bản xứ mà sử dụng nguyên liệu khai thác từ những
vùng xa xôi nhất, những ngành công nghiệp mà sản phẩm được tiêu thụ
không chỉ trong nước mà ở khắp mọi nơi trên hoàn cầu. Thay cho những nhu
cầu cũ được thỏa mãn bằng sản phẩm nội địa, chúng ta thấy những nhu cầu
mới, đòi được thỏa mãn bằng các sản phẩm từ các vùng đất và vùng khí
hậu xa xôi. Thay cho sự cô lập và tự túc cố hữu của địa phương và quốc
gia là giao lưu mọi hướng và sự phụ thuộc phổ quát giữa các quốc gia.”
Đến thế kỷ 20, nhà kinh tế Joseph
Schumpeter sẽ triển khai trên những luận điểm này cái ý niệm cho rằng
chủ nghĩa tư bản có đặc tính “hủy hoại sáng tạo”, trong đó các sản phẩm,
các hình thức phân phối và tổ chức mới sẽ đào thải các hình thức cũ
hơn. Nhưng khác với Marx, là người chỉ thấy nguồn gốc của tính năng động
này trong cuộc tìm kiếm “tư bản” quái gở (mà ông cho là bóc lột giai
cấp công nhân), Schumpeter tập trung vào vai trò của doanh nhân là người
có sáng kiến, biết đưa vào thị trường các hàng hóa mới và khám phá các
thị trường và các phương pháp mới.
Tính năng động và tình trạng bất an do
chủ nghĩa tư bản công nghiệp thế kỷ 19 tạo ra đã dẫn đến sự thành lập
các định chế mới để giảm bớt bấp bênh kinh tế, bao gồm tập đoàn trách
nhiệm hữu hạn, nhằm giảm bớt rủi ro cho người đầu tư; các công đoàn,
nhằm cải tiến lợi ích của người lao động; các hội tương trợ, nhằm cho
vay nợ và cung cấp bảo hiểm chôn cất (burial insurance); và ngành bảo
hiểm nhân thọ thương mại. Vào những thập niên giữa thế kỷ 20, nhằm đối
phó nạn thất nghiệp tràn lan và cảnh khốn cùng do cuộc Đại khủng hoảng
kinh tế gây ra (cũng như do sự thành công chính trị của chủ nghĩa cộng
sản và phát-xít, một sự thành công đã thuyết phục nhiều nhà dân chủ rằng
một tình trạng quá bấp bênh về kinh tế là mối đe dọa cho chính bản thân
thể chế dân chủ tư bản chủ nghĩa), các nước dân chủ phương Tây đã chọn
chính sách nhà nước phúc lợi (the welfare state). Nhiều quốc gia khác
nhau đã sáng tạo nhiều kết hợp khác nhau gồm các chương trình cụ thể,
nhưng các nhà nước phúc lợi mới mẻ này có nhiều điểm giống nhau, trong
đó có chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm thất nghiệp cũng như nhiều
biện pháp khác nhau để hỗ trợ các gia đình.
Sự bành trướng của nhà nước phúc lợi vào
những thập niên sau Thế chiến II đã diễn ra vào một thời điểm mà các
nền kinh tế tư bản đang tăng trưởng nhanh chóng. Sự thành công của nền
kinh tế công nghiệp đã cho phép chuyển một số lợi nhuận và tiền lương
vào các mục đích chính phủ thông qua việc đánh thuế. Sự phát triển dân
số thời hậu chiến, trong đó mô hình gia đình chồng đi làm-vợ nội trợ
(the breadwinner-home maker model) chiếm số đông, cũng rất phù hợp, vì
tỉ lệ sinh cao vừa phải đã tạo ra một tỉ lệ thích hợp giữa số công nhân
năng động và những người lệ thuộc [vợ con]. Cánh cửa cơ hội giáo dục
được mở rộng, khi các đại học ưu tú gia tăng việc nhận sinh viên căn cứ
vào thành tích học tập và tiềm năng của họ, và càng ngày càng có nhiều
người theo học tại các cơ sở giáo dục cấp cao hơn. Các rào cản không cho
phép phụ nữ và người thiểu số tham gia trọn vẹn vào đời sống xã hội
cũng bắt đầu sụp đổ. Kết quả của tất cả những điều đó là một tình trạng
quân bình tạm thời, trong đó các nước tư bản tiên tiến trải qua một thời
kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đa số dân chúng có công ăn việc làm, và
tương đối có bình đẳng kinh tế-xã hội.
(Còn 3 kì)
_________
Jerry Z. Muller là Giáo sư Sử học tại Catholic University of America và là tác giả cuốn The Mind and the Market: Capitalism in Western Thought (Trí tuệ và Thị trường: Chủ nghĩa Tư bản trong Tư tưởng phương Tây).
Nguồn: Jerry Z. Muller, “Capitalism and Inequality. What the Right and the Left Get Wrong”. Foreign Affairs, tháng Ba/tháng Tư 2013
Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra
&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&
Chủ
nghĩa tư bản và tình trạng bất bình đẳng. Cánh Hữu và cánh Tả sai lầm ở những
điểm nào (2)
Tháng 6 26, 2013
Jerry Z. Muller
Trần Ngọc Cư dịch
Procontra
Tháng 6 26, 2013
Jerry Z. Muller
Trần Ngọc Cư dịch
Procontra
Đời sống trong nền kinh tế hậu công nghiệp
Đối với nhân loại nói chung, cuối thế kỷ
20 và đầu thế kỷ 21 là một thời kỳ tiến bộ ngoạn mục, một phần không
nhỏ nhờ vào sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản trên toàn cầu. Tiến
trình tự do hóa kinh tế (economic liberalization) tại Trung Quốc, Ấn Độ,
Brazil, Indonesia, và các nước khác trong thế giới đang phát triển đã
cho phép hàng trăm triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói cùng cực và
tiến lên giai cấp trung lưu. Trong khi đó, người tiêu thụ tại các nước
tư bản tiên tiến hơn, như Hoa Kỳ chẳng hạn, đã và đang được hưởng sự
giảm giá cực lớn của nhiều mặt hàng, từ quần áo đến máy truyền hình, và
có thể mua sắm cả một biển hàng hóa mới mẻ, những thứ đã biến đổi cuộc
đời họ.
Nhưng đáng chú ý hơn cả có lẽ là những
biến đổi trong các phương tiện trau dồi kiến thức bản thân
(self-cultivation). Như nhà kinh tế Tyler Cowen nhận xét, phần lớn thành
quả của những phát triển gần đây “nằm trong đầu và trong những chiếc laptop của chúng ta nhiều hơn nằm trong khu vực kinh tế sinh ra doanh thu”. Do đó, “phần lớn giá trị của Internet
được cảm nhận ở mức độ cá nhân và vì thế không bao giờ xuất hiện trong
những số liệu chỉ năng suất”. Nhiều cuộc trình diễn âm nhạc vĩ đại của
thế kỷ 20, đủ mọi thể loại, có thể được thưởng thức miễn phí trên YouTube.
Nhiều bộ phim xuất sắc của thế kỷ 20, mà ngày trước chỉ thỉnh thoảng
mới được trình chiếu tại các trung tâm nghệ thuật ở một vài vùng đô thị
lớn, bây giờ có thể được xem bởi bất cứ ai vào bất cứ lúc nào với một lệ
phí hàng tháng rất thấp. Chẳng bao lâu nữa, thư viện của các đại học
lớn sẽ mở cửa trực tuyến cho toàn thế giới; và tiếp theo đó, những cơ
hội chưa từng có trong việc phát triển đời sống cá nhân sẽ diễn ra.
Tuy nhiên, tất cả sự tiến bộ này vẫn bị
ám ảnh bởi hai đặc điểm bất diệt của chủ nghĩa tư bản: đó là, tình trạng
bất bình đẳng và bất an kinh tế. Ngay từ năm 1973, nhà xã hội học
Daniel Bell đã nhận xét rằng trong thế giới tư bản tiên tiến, tri thức,
khoa học, và công nghệ đang thúc đẩy một cuộc chuyển đổi sang cái mà ông
gọi là “xã hội hậu công nghiệp (postindustrial society)”. Cũng như
ngành chế tạo hàng hoá trước đó đã thay thế nông nghiệp làm nguồn thu
dụng nhân công chính, ông lý luận, khu vực dịch vụ (the service sector)
hiện đang thay thế khu vực chế tạo. Trong một nền kinh tế tri thức hậu
công nghiệp, việc sản xuất các mặt hàng chế tạo dựa trên đầu vào công
nghệ (technological inputs) nhiều hơn dựa vào kỹ năng của những công
nhân thực sự xây dựng và lắp ráp sản phẩm. Điều này ngụ ý một sự suy
giảm nhu cầu đối với các công nhân nhà máy có kỹ năng (skilled) và bán
kỹ năng (semiskilled) và sự xuống cấp về giá trị kinh tế của họ – cũng
như trước đó đã có sự suy giảm nhu cầu đối với người làm nghề nông và sự
xuống cấp giá trị của họ. Trong một nền kinh tế hậu công nghiệp, những
kỹ năng được đòi hỏi gồm tri thức khoa học kỹ thuật và khả năng sử dụng
thông tin. Trong khi đó, cuộc cách mạng công nghệ thông tin ào ạt diễn
ra trong nền kinh tế trong vài thập kỷ gần đây chỉ càng thúc đẩy mạnh mẽ
những xu thế này.
Một ảnh hưởng nghiêm trọng do sự trỗi
dậy của nền kinh tế hậu công nghiệp liên quan đến địa vị và vai trò của
nam giới và nữ giới. Lợi thế tương đối của nam giới trong các nền kinh
tế tiền công nghiệp và công nghiệp (preindustrial and industrial
economies) phần lớn nằm ở sức mạnh thể lực lớn hơn của họ – một điều mà
bây giờ ngày càng ít cần đến. Trái lại, nữ giới hoặc do cấu tạo sinh học
hoặc qua giao tiếp xã hội, có được một lợi thế tương đối về kỹ năng ứng
xử và trí tuệ xúc cảm (emotional intelligence), những đức tính ngày
càng trở nên quan trọng trong một nền kinh tế hướng tới dịch vụ hơn là
hướng tới sản xuất vật dụng. Bộ phận kinh tế mà người phụ nữ có thể tham
gia đã mở rộng, và lao động của họ đã trở nên có giá trị hơn trước –
điều này ngụ ý rằng, nếu họ dùng thì giờ cho việc nội trợ thì họ sẽ mất
đi những khả năng thuận lợi trong lực lượng lao động được trả lương.
Điều đó dẫn đến sự thay thế ngày càng phổ biến các hộ gia đình chồng đi
kiếm cơm-vợ lo nội trợ (male breadwinner-female homemaker households)
bằng hộ gia đình có hai nguồn thu nhập (dual-income households). Những
người ủng hộ cũng như những người đả kích việc thu dụng phụ nữ vào nền
kinh tế được trả lương có xu thế nhấn mạnh quá đáng vai trò của các cuộc
tranh đấu ý thức hệ về nữ quyền trong sự thay đổi này, trong khi đánh
giá quá thấp vai trò của những thay đổi trong bản chất của tiến trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc tái triển khai lao động phụ nữ ra khỏi
hộ gia đình được thể hiện một phần nhờ sự xuất hiện của những hàng hoá
mới, những hàng hóa đã cắt giảm thì giờ lao động cần thiết trong gia
đình (như máy giặt, máy sấy, máy rửa chén, bình nóng lạnh, máy hút bụi,
lò vi sóng). Chính việc dành nhiều thì giờ hơn cho hoạt động thị trường
đã làm nảy sinh nhu cầu mới đối với những mặt hàng tiêu thụ trong gia
đình ít đòi hỏi công sức (như thức ăn gói sẵn và làm sẵn), đồng thời
thúc đẩy sự bành trướng của việc ăn nhà hàng và thức ăn nhanh. Và điều
này đã dẫn đến tiến trình thương phẩm hóa dịch vụ chăm sóc (the
commodifiation of care) – khi trẻ em, người cao niên, và người tàn tật
ngày càng được chăm sóc không phải bởi người thân, mà bởi những người
được trả lương.
Xu thế người phụ nữ được học hành nhiều
hơn và thành đạt hơn trong nghề nghiệp đi đôi với việc thay đổi chuẩn
mực xã hội trong việc lựa chọn người hôn phối. Trong thời đại hôn nhân
với mô hình chồng kiếm cơm-vợ lo việc nhà, người phụ nữ có khuynh hướng
coi trọng khả năng kiếm tiền trong việc lựa chọn người hôn phối. Về phần
mình, người đàn ông đánh giá những khả năng nội trợ của người vợ tương
lai cao hơn những thành đạt nghề nghiệp của họ. Không phải là chuyện bất
thường khi đàn ông hay đàn bà lấy một người có cùng trình độ trí thức,
nhưng vào thời đó đàn bà có xu thế lấy đàn ông có trình độ giáo dục và
thành đạt kinh tế cao hơn mình. Khi kinh tế chuyển từ một nền kinh tế
công nghiệp sang một nền kinh tế dịch vụ và thông tin hậu công nghiệp,
phụ nữ đã sánh vai cùng nam giới trong nỗ lực giành sự công nhận xã hội
qua các công việc được trả lương, do đó một cặp vợ chồng cần mẫn tiêu
biểu hiện nay ngày càng là hai người đồng đẳng (peers), với trình độ
giáo dục ngang hàng hơn trước và mức thành đạt kinh tế tương đương hơn
trước – một tiến trình được gọi là “assortative mating” [“trao duyên phải lứa, gieo cầu đúng nơi”- Kiều].
Tình trạng bất bình đẳng trên đà gia tăng
Những xu thế xã hội hậu công nghiệp này
đã tác động đáng kể lên tình trạng bất bình đẳng hiện nay. Nếu thu nhập
gia đình tăng lên gấp đôi ở mỗi nấc thang kinh tế, thì tổng số thu nhập
của những gia đình ở những nấc thang cao hơn chắc chắn tăng nhanh hơn
tổng số thu nhập của những gia đình ở những nấc thang bên dưới. Nhưng
đối với một bộ phận đáng kể những hộ gia đình ở phần dưới của chiếc
thang, thu nhập gia đình không thể nào tăng gấp đôi được – vì khi lương
tương đối của phụ nữ được tăng lên và lương tương đối của giới nam công
nhân ít học bị giảm sút, thì giới đàn ông này bị coi là càng ngày càng
khó lấy vợ. Thông thường, những hạn chế về vốn con người (human capital)
khiến những người đàn ông này khó kiếm được việc làm và biến họ trở
thành những đối tượng ít được mong muốn. Và những đặc điểm nhân cách của
những người đàn ông thất nghiệp kinh niên đôi khi cũng xuống cấp theo.
Với đồng lương càng kém cỏi mang về cho gia đình, những người đàn ông
này càng bị coi là ít cần thiết – một phần vì ngày nay đàn bà có thể
trông cậy vào những trợ cấp của nhà nước phúc lợi như một nguồn thu nhập
độc lập phụ trội, dù ít ỏi bao nhiêu chăng nữa.
Tại Hoa Kỳ, một trong những phát triển
nổi bật nhất của các thập kỷ gần đây là tiến trình giai cấp hóa các mô
hình hôn nhân giữa các tầng lớp và các nhóm sắc tộc khác nhau trong xã
hội. Khi luật ly dị được nới lỏng vào những năm 1960, tỉ lệ ly dị đã gia
tăng trong mọi tầng lớp xã hội. Nhưng vào khoảng thập niên 1980, một mô
hình mới đã xuất hiện: tỉ lệ ly dị bắt đầu giảm trong những bộ phận dân
chúng có học, trong khi tỉ lệ ly dị trong những bộ phận dân số thiếu
học vẫn tiếp tục tăng. Hơn nữa, những người có học và khá giả thường có
khả năng lấy vợ lấy chồng hơn, trong khi những người thiếu học ít có khả
năng này. Vì gia đình đóng vai trò là nơi tạo ra vốn con người, những
xu thế trên có hậu quả nghiêm trọng lây lan sang tình trạng bất bình
đẳng trong xã hội. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng trẻ em được cả cha lẫn
mẹ nuôi dạy trong một cuộc hôn nhân không gián đoạn có khả năng phát
triển tinh thần kỷ luật và lòng tự tin hơn, để chuẩn bị cho những thành
công trong đời, trong khi trẻ em – và nhất là con trai – được nuôi trong
các hộ gia đình chỉ có một người cha hay mẹ đơn chiếc (hay, tồi tệ hơn
nữa, những hộ gia đình với một người mẹ có những quan hệ tạm bợ) thường
chịu rủi ro nhận lãnh những hậu quả xấu cao hơn.
Tất cả sự thể này đã và đang diễn ra
trong một thời kỳ mà cơ hội đồng đều trong việc tiếp cận giáo dục và
tiến trình phân cấp (stratification) các phần thưởng kinh tế thị trường
đang gia tăng – cả hai diễn biến này đã nâng cao tầm quan trọng của vốn
con người. Một yếu tố của vốn con người là khả năng nhận thức (cognitive
ability): sự nhanh trí, khả năng suy luận và áp dụng các mô hình rút từ
kinh nghiệm, và khả năng đối phó với tính phức tạp trí tuệ. Một yếu tố
khác là nhân cách và các kỹ năng xã hội: tinh thần kỷ luật, đức tính
kiên trì, và tinh thần trách nhiệm [còn được gọi là noncognitive skills,
ND]. Yếu tố thứ ba là kiến thức thực có (actual knowledge). Tất cả
những yếu tố này của vốn con người đang ngày càng trở nên tối quan trọng
cho sự thành công trong thị trường hậu công nghiệp. Như nhà kinh tế
Brink Lindsey nhận xét trong cuốn sách gần đây của ông, Human Capitalism
(Chủ nghĩa tư bản nhân văn), từ năm 1973 đến năm 2001, tăng trưởng lợi
tức trung bình hàng năm là 0,3% cho những người thuộc 1/5 thấp nhất
trong bản phân phối lợi tức Hoa Kỳ, so với 0,8% cho những người thuộc
1/5 ở giữa và 1,8% cho những người thuộc 1/5 cao nhất trong bản phân
phối. Những mô hình khá tương tự cũng chiếm lĩnh tại nhiều nền kinh tế
tiên tiến khác.
Tiến trình toàn cầu hóa không phải là
nguyên nhân gây ra, nhưng nó góp phần đẩy mạnh mô hình bất bình đẳng
ngày càng tăng về phân phối lợi tức tương ứng với vốn con người nêu trên
Chuyên gia kinh tế Michael Spence đã phân biệt hàng hoá và dịch vụ “mậu
dịch” (tradable), tức những thứ có thể xuất khẩu và nhập khẩu dễ dàng,
và những hàng hóa và dịch vụ “phi mậu dịch” (untradable), tức những thứ
không thể xuất nhập khẩu. Ngày càng nhiều, những hàng hóa và dịch vụ mậu
dịch được nhập vào các xã hội tư bản tiên tiến từ các xã hội tư bản kém
tiên tiến, là nơi giá lao động thấp hơn. Khi các hàng chế tạo và các
dịch vụ thông dụng được đưa ra sản xuất ở nước ngoài (outsourced) thì
đồng lương công nhân thiếu tay nghề và thiếu học tại các xã hội tư bản
tiên tiến sẽ xuống thấp hơn nữa, trừ phi những người này có thể tìm được
việc làm khấm khá trong khu vực hàng hóa-dịch vụ không thể xuất nhập
khẩu (the untradable sector).
Tác động của tài chính hiện đại
Trong khi đó, tình trạng bất bình đẳng
kinh tế hiện đang gia tăng đã trở nên nghiêm trọng hơn do chính nỗi bất
an và lo lắng cũng đang gia tăng của những người ở nấc thang kinh tế cao
hơn. Một xu thế ảnh hưởng đến vấn đề này là tiến trình tài chính hóa
nền kinh tế, chủ yếu diễn ra tại Mỹ, hiện đang tạo ra cái mà nhà kinh tế
Hyman Minsky mệnh danh là “chủ nghĩa tư bản quản lý tiền” (money
manager capitalism) và được chuyên gia tài chính Alfred Rappaport gọi là
“chủ nghĩa tư bản môi giới” (agency capitalism).
Đến tận thập niên 1980, tài chính tuy là
một yếu tố cần thiết nhưng hạn chế trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Việc mua
bán cổ phiếu (thị trường chứng khoán) gồm các nhà đầu tư cá nhân, lớn
hoặc nhỏ, bỏ tiền của chính mình vào cổ phần các công ty mà họ tin là có
viễn ảnh dài hạn tốt đẹp. Vốn đầu tư thời bấy giờ cũng có thể xuất phát
từ các ngân hàng đầu tư chính của Wall Street hay của các nước khác;
đây là những công ty tư nhân trong đó tiền của người hùn vốn có thể chịu
rủi ro mất mát. Tất cả điều này bắt đầu thay đổi khi các quỹ vốn chung
lớn hơn được đem ra đầu tư và được các nhà quản lý tiền chuyên nghiệp
(professional money managers) chứ không do bản thân các chủ vốn ấy triển
khai trên thị trường.
Một nguồn vốn mới mẻ thuộc loại này là
các quĩ hưu trí (pension funds). Trong những thập kỷ hậu chiến, khi các
công nghiệp quan trọng của Hoa Kỳ ra đời từ Thế chiến II như là những
tập đoàn có sức mạnh độc quyền (oligopolies) ít gặp cạnh tranh và có thị
trường to lớn bành trướng ở bên trong cũng như bên ngoài nước Mỹ, lợi
nhuận và viễn ảnh tương lai của những công ty này đã cho phép chúng cung
ứng cho nhân viên của mình những chương trình hưu trí trong đó quyền
lợi công nhân được qui định rõ ràng và công ty gánh chịu mọi rủi ro.
Nhưng, từ thập niên 1970, vì môi trường kinh tế Hoa Kỳ trở nên giầu cạnh
tranh hơn trước, lợi nhuận của các tập đoàn cũng trở nên bấp bênh hơn,
và các công ty (cũng như nhiều tổ chức trong khu vực công) cố gắng
chuyển hướng sự rủi ro bằng cách đặt các quỹ hưu trí vào tay các nhà
quản lý tiền chuyên nghiệp, tức những chuyên gia được người ta kỳ vọng
sẽ tạo ra lợi nhuận đáng kể. Lợi tức hưu trí của nhân viên không còn tùy
thuộc vào lợi nhuận của các công ty họ từng phục vụ mà tùy thuộc vào số
phận của các quỹ hưu trí.
Một nguồn vốn mới mẻ khác là các quỹ tài
trợ (emdowments) cho các đại học và các tổ chức phi lợi nhuận thời gian
đầu nhờ quyên góp (donations) mà phát triển, nhưng càng ngày người ta
càng kỳ vọng chúng sẽ tăng trưởng hơn nữa nhờ thành tích của việc đầu tư
chúng vào thị trường. Và còn có một nguồn vốn mới mẻ hơn nữa phát xuất
từ các cá nhân và chính phủ trong thế giới đang phát triển, nơi mà sự
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, kết hợp với một xu thế tiết kiệm cao và
một ước muốn bỏ vốn vào các dự án đầu tư tương đối an toàn, đã dẫn đến
những luồng tiền to lớn chảy vào hệ thống tài chính Hoa Kỳ.
Được thúc đẩy một phần bởi những cơ hội
mới mẻ này, các ngân hàng đầu tư truyền thống của Wall Street đã tự biến
mình thành những tập đoàn có cổ phần được mua bán công khai trên sàn
giao dịch – nghĩa là, những ngân hàng này bắt đầu đầu tư không những với
ngân quỹ của chính mình mà còn với tiền của người khác – và ràng buộc
tiền thưởng dành cho các đối tác và nhân viên của mình vào lợi nhuận
hàng năm. Tất cả sự kiện này đã tạo ra một hệ thống tài chính cạnh tranh
cao độ, bị khống chế bởi những nhà quản lý đầu tư có khả năng điều động
những lượng vốn hùn hạp to lớn, và thù lao của họ tùy thuộc vào khả
năng mang lại thành tích vượt trội hơn những người cùng địa vị. Cơ cấu
tưởng thưởng trong môi trường này đã thúc đẩy các nhà quản lý quỹ đầu tư
cố gắng tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn (maximize short-term returns), và
sức ép này đã phần nào đổ xuống lãnh đạo các tập đoàn. Khung thời gian
bị thu hẹp đã tạo ra một cám dỗ là phải thúc đẩy lợi nhuận trước mắt,
bất chấp cả những đầu tư dài hạn, dù đó là lãnh vực nghiên cứu phát
triển (research and development) hay đó là việc cải thiện các kỹ năng
của lực lượng lao động trong một công ty. Đối với cả giới quản lý lẫn
nhân viên, hậu quả của nỗ lực đầu tư này là một tình trạng xáo trộn
thường xuyên làm gia tăng khả năng mất việc và bất an kinh tế.
Một nền kinh tế tư bản tiên tiến hẳn
nhiên cần đến một khu vực tài chính rộng lớn. Một phần của điều đó là
việc đơn giản nới rộng sự phân công lao động: giao các quyết định liên
quan đến đầu tư cho các chuyên gia có nghĩa là cho phép phần còn lại
trong dân chúng có được không gian trí tuệ (the mental space) để theo
đuổi những gì mà họ thành thạo hơn hay quan tâm nhiều hơn. Tính phức tạp
ngày càng gia tăng của các nền kinh tế tư bản ngụ ý rằng doanh nhân và
lãnh đạo các tập đoàn cần đến người giúp đỡ trong việc quyết định thời
điểm và phương cách gây vốn. Và các công ty quản lý đầu tư (private
equity firms) mà quyền lợi gắn liền với sự gia tăng giá trị thực (real
value) của các hãng mà chúng đầu tư, đóng vai trò chủ yếu trong việc đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế. Những vấn đề này, vốn là mối bận tâm chính
đáng của các nhà tài chính, thường đưa đến những hậu quả quan trọng, và
muốn xử lý chúng thì phải cần đến thông minh, cần mẫn, và động lực. Vì
thế, chẳng phải là một điều đáng ngạc nhiên hay là một điều ngoài ý muốn
khi các chuyên gia trong lãnh vực này được trả lương rất hậu. Nhưng dù
những lợi ích và giá trị xã hội liên lũy của nó là gì đi nữa, tiến trình
tài chính hóa xã hội (the financialization of society) vẫn mang lại một
số hậu quả đáng tiếc, cả trong việc gia tăng tình trạng bất bình đẳng
bằng cách nâng cấp giới chóp bu trên chiếc thang kinh tế (thông qua
những phần thưởng phi thường mà giới quản lý tài chính nhận được), lẫn
trong việc gia tăng tình trạng bất an kinh tế cho những thành phần ở nấc
thang thấp hơn (thông qua việc tập trung cao độ vào thành tích kinh tế
ngắn hạn mà phải loại bỏ các quan tâm dài hạn khác).
(Còn 1 kì)
__________________
Jerry Z. Muller là Giáo sư Sử học tại Catholic University of America và là tác giả cuốn The Mind and the Market: Capitalism in Western Thought (Trí tuệ và Thị trường: Chủ nghĩa Tư bản trong Tư tưởng phương Tây).
Nguồn: Jerry Z. Muller, “Capitalism and Inequality. What the Right and the Left Get Wrong”. Foreign Affairs, tháng Ba/tháng Tư 2013
Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét