Những bài viết của LS Trần Vũ Hải nhân Kỳ họp 6 Quốc hội Khóa 13 (1,2,3)
Diendanxahoidansu
Đối Thoại:
Hiếp dâm tập thể!
Đảng CS Nguyễn Phú Trọng hiếp dân nhân dân VN sản sinh ra đứa
con vô luân “điều 4 HP”!
Quốc Hội XHCN "hiến pháp hóa” hành vi hiếp dâm tập thể của
đảng CS Nguyễn Phú Trọng!
|
Những bài
viết của LS Trần Vũ Hải nhân Kỳ họp 6 Quốc hội Khóa 13 (Bài 1)
Ddxhdansu
Giới
thiệu: Nhân kỳ
họp rất quan trọng của Quốc hội, kéo dài hơn thường lệ (44 ngày), sẽ dứt khoát
thông qua Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 và Luật Đất đai 2003, LS Trần Vũ Hải
đã gửi tới Diễn đàn Xã hội Dân sự Bài viết số 1, trong loạt bài và thư phân
tích các khía cạnh pháp lý của các văn bản mà Quốc hội sẽ thông qua lần này,
cùng một số vấn đề liên quan khác.
Chúng
tôi xin trân trọng giới thiệu với độc giả và chân thành cám ơn Luật sư Trần Vũ
Hải.
BT
————-
Thư gửi Đại biểu Quốc hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
(đề nghị ông Tổng Bí thư yêu cầu các Đại biểu Quốc hội là đảng viên khi thông
qua Dự án sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng
sản Việt Nam về nội dung xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến
pháp).
Kính
gửi: Ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư Đảng cộng
sản Việt Nam
Đồng
kính gửi: – Ông Trương Tấn Sang – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước
-
Ông Nguyễn Sinh Hùng – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội
-
Ông Nguyễn Tấn Dũng – Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ
Tôi
– Trần Vũ Hải, công dân Việt Nam, hành nghề luật sư tại 81 phố Chùa Láng, quận
Đống Đa, Hà Nội và 66 Huỳnh Khương Ninh, quận 1, Tp Hồ Chí Minh, xin gửi tới các
ông lời chào trân trọng.
Kỳ
họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII (khai mạc hôm nay) sẽ thông qua Dự án sửa đổi Hiến
pháp năm 1992. Với tư cách một người nghiên cứu về Hiến pháp và hành nghề luật
sư, tôi đặc biệt quan tâm đến cơ chế bảo hiến được quy định trong Hiến pháp.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (“ĐCSVN”) đã thông qua Nghị quyết Đại hội lần thứ X vào ngày
25/4/2006, trong đó có nội dung Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX tại Đại hội X này. Điểm 2 (tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa) mục XI của Báo cáo
này có nêu: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Do trong Hiến pháp 1992 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2001) chưa quy định về cơ chế phán quyết này, nên phải
được hiểu khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 sau Đại hội X, nội dung này phải
được thực hiện.
Nghị
quyết của Đại hội XI của ĐCSVN năm 2011 đã không hủy bỏ nội dung trên. Như vậy,
nội dung này vẫn có giá trị đối với các đảng viên khi thực hiện nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa.
Trước
kỳ họp này, ông Nguyễn Hạnh Phúc – Chánh Văn phòng Quốc hội đã cho biết, có 02
phương án liên quan đến cơ chế bảo hiến: phương án 1 quy định việc tổ
chức Hội đồng Hiến pháp (với chức năng kiến nghị là chính, không có chức năng
phán quyết), phương án 2 giữ nguyên như hiện hành.
Nếu
đúng như vậy, theo chúng tôi cả 02 phương án này đều không phù hợp với nội dung
trên của Nghị quyết X của ĐCSVN. Theo nội dung đã dẫn của Nghị quyết X,
thiết chế bảo hiến được xây dựng có quyền phán quyết về những vi phạm Hiến pháp
trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nói cách khác, thiết chế này sẽ
xem xét những khiếu nại về vi hiến của những cơ quan quyền lực Nhà nước và xác
định có việc vi hiến hay không, giải quyết vụ việc vi hiến như thế nào? Thiết
chế này tương đương với Tòa bảo hiến ở nhiều nước.
Do
có quan điểm cho rằng, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất tại Việt Nam, nên
không thể có thiết chế hủy bỏ quyết định của Quốc hội. Tức cho rằng thiết chế
bảo hiến ở Việt Nam (nếu có) không có quyền hủy bỏ Luật, Nghị quyết của Quốc
hội khi có những quy định vi hiến trong Luật, Nghị quyết, nên cơ chế Tòa án bảo
hiến khó hiện thực tại Việt Nam.
Chúng
tôi cho rằng, Hội đồng Hiến pháp có thể là một cơ chế phù hợp thực tế hiện nay
tại Việt Nam. Tuy nhiên, Hội đồng Hiến pháp phải có chức năng phán quyết về
những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tức có
quyền xác định có vi hiến hay không và giải quyết vụ việc vi hiến, khi có khiếu
nại của công dân, tổ chức. Riêng đối với hoạt động lập pháp của Quốc hội,
Hội đồng Hiến pháp có quyền xác định nội dung trong một đạo luật hoặc Nghị
quyết của Quốc hội là vi hiến, nhưng không có quyền hủy bỏ đạo luật hoặc Nghị
quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, Hội đồng Hiến pháp có quyền đình chỉ hiệu lực
của đạo luật, Nghị quyết (hoặc đình chỉ hiệu lực một phần của đạo luật, Nghị
quyết) có nội dung vi hiến. Quốc hội có trách nhiệm phải kịp thời sửa đổi nội dung
vi hiến của đạo luật, Nghị quyết liên quan theo khuyến nghị của Hội đồng Hiến
pháp. Xây dựng một thiết chế như trên trong Hiến pháp vẫn đảm bảo nội dung xây
dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Vì
vậy, chúng tôi kêu gọi ông Tổng Bí thư ĐCSVN yêu cầu các Đại biểu Quốc hội là
đảng viên ĐCSVN phải tuân thủ nội dung trên của Nghị quyết X khi thông qua Dự
án sửa đổi Hiến pháp 1992, một việc phải làm để đảm bảo Hiến pháp là một đạo
luật có hiệu lực trực tiếp.
Trường
hợp lãnh đạo ĐCSVN cho phép đảng viên không có nghĩa vụ phải tuân theo một nội
dung quan trọng của Nghị quyết Đảng (mà nội dung đó lại tiến bộ, phù hợp với
thông lệ quốc tế), sẽ là một tiền lệ xấu cho việc giữ gìn kỷ luật Đảng, vốn là
thế mạnh của một Đảng Cộng sản.
Xin
cám ơn các ông đã quan tâm đến Thư này của tôi.
Trân
trọng.
Hà Nội, ngày
21/10/2013
Công dân Trần
Vũ Hải
—-
* Xem thêm:
- LS Trần Vũ Hải gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội bản Dự thảo Ý kiến
về Thành lập và Tham gia đảng phái (Ba Sàm). - LS Trần Vũ Hải: Đề nghị hoãn phiên tòa phúc thẩm xử Đoàn Văn
Vươn, Đoàn Văn Quý (Ba Sàm).
Những bài viết của LS Trần Vũ Hải nhân Kỳ họp 6 Quốc hội Khóa 13 (Bài 2)
Bình
luận nhanh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sau đúng một năm tiếp thu, chỉnh
lý (về Lời nói đầu, Chương I và Chương II). *
Dựa
vào trang web duthaoonline.quochoi.vn,
chúng tôi tìm hiểu Dự thảo 1 đề ngày 18/12/2012 (DT1) và Dự thảo 4 đề ngày 17/10/2013 (DT4). Sau đây là một
số nhận xét nhanh về 02 Dự thảo này:
I/. Về lời nói đầu và Chương I (Chế độ
chính trị):
1,
Lời nói đầu của DT4 về cơ bản như lời nói đầu của DT1 nhưng đã được rút ngắn
bằng khoảng 2/3 so với DT1.
2,
Các điều 1 và 2 DT4 về cơ bản được giữ nguyên ý như DT1 ( điều 2 có
bổ sung thêm đoạn “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm
chủ”).
3,
Các điều 3 và 4 về cơ bản được giữ nguyên. Tuy nhiên có 02 lưu lý:
a,
Tại điều 3 thêm đoạn “Nhà nước….tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân…”
b,Tại
điều 4 DT1 Đảng cộng sản Việt Nam (“ĐCSVN”) theo Chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh trong khi tại điều 4 DT4, ĐCSVN lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Chúng tôi sẽ sớm
trở lại bình luận điều 4 DT4.
4,
Các điều 5, 6, 7 của DT4 cơ bản vẫn được giữ nguyên ý như DT1, có thay đổi một
chút về mặt ngôn từ.
5,
Điều 8 của DT4 được rút ngắn so với điều 8 DT1 nhưng về cơ bản không khác ý.
6,
Các điều 9, 10 về cơ bản được giữ nguyên ý. Điều 9 DT4 ghi rõ thêm các tổ chức
chính trị – xã hội gồm Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến
binh Việt Nam là những thành viên của Mặt trận Tổ quốc.
7,
Khoản 1 điều 11 DT4 được giữ nguyên (như DT1). Tuy nhiên khoản 2 của điều 11
DT4 có điều chỉnh đáng lưu ý so với DT1 là bỏ cụm từ xâm phạm lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân ra khỏi nhóm hành vi bị nghiêm trị. Một
sự điều chỉnh khó hiểu? ( Mời các bạn tìm hiểu thêm và bình luận).
8,
Điều 12 của DT 4 về cơ bản được giữ nguyên ý của DT1. Điều 13 của DT4 ghép điều
13 và điều 14 của DT1, về cơ bản như DT1.
Nhận
xét chung: Nội dung Lời
nói đầu và Chương I (Chế độ chính trị) của DT4 so với nội dung Lời nói đầu và
Chương I của DT1 không có khác biệt đáng kể.
II.
Về chương II (Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân)
1,
Điều 14 của DT4 tương ứng với điều 15 DT1. So với DT1 được bổ sung thêm:
a,
Cụm từ “về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” sau cụm từ “quyền
con người, quyền công dân”. Theo chúng tôi, việc ghi rõ thêm các
quyền này chưa chắc đã bao quát hết quyền công dân, quyền con người.
b,
Bổ sung khoản 2 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” là
đoạn được ghi trong khoản 3 điều 17 DT1.
2,
Điều 15 của DT4 tương ứng với điều 16 và điều 20 của DT1. Đáng chú ý khoản 4
DT4 đã sử dụng câu: “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không
được xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác” thay câu trong khoản 2 điều 16 của DT1 “Không được lợi dụng
quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc,
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Theo chúng tôi hai câu này đều
chưa thích đáng.
3,
Các điều 16, 17 và 18 của DT4 về cơ bản giữ nguyên ý của các điều 17, 18 và 19
của DT1. Tuy nhiên khoản 2 của điều 18 DT1 (nói về công dân Việt Nam có quốc
tịch nước khác) đã bị loại bỏ khỏi DT4.
4,
Điều 19 của DT4 tương ứng với điều 21 của DT1, được điều chỉnh như sau:
Điều
21 DT1:
1.
Mọi người đều có quyền sống.
2.
Hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với một số ít tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
được quy định trong luật.
Điều
19 DT4:
Mọi
người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị
tước đoạt tính mạng một cách trái luật.
Bình luận: Phải chăng có luật tước đoạt tính mạng?
5,
Điều 20 của DT4 tương ứng với điều 22 của DT1, về cơ bản giữ nguyên ý của DT1.
Tuy nhiên có thêm hai ý sau:
1.
Quy định về việc bị bắt (mà DT1 bỏ
quên chưa quy định, không rõ lý do gì).
2.
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và
hiến xác (sẽ được luật định).
6,
Điều 21 của DT4 (về bí mật cá nhân, thư tín) có 02 điều chỉnh nhỏ so với điều
23 của DT1.
a,
Đoạn trong khoản 1 điều 21 của DT4: “Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân, bí mật gia đình của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật” thay
thế đoạn trong khoản 1 điều 23 của DT1: “Không được phép thu thập, lưu giữ,
sử dụng và phổ biến thông tin về đời sống riêng tư, bí mật gia đình và bí mật
cá nhân của người khác nếu không được người đó đồng ý”
b,
Đoạn trong khoản 2 điều 21 của DT4: “Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu
giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin
riêng tư của người khác” thay thế đoạn trong khoản 2 điều 23 của DT1: “Việc
bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao
đổi thông tin riêng tư khác của công dân do luật định”
7,
Điều 22 (về quyền chỗ ở
và bất khả xâm phạm về chỗ ở) của DT4 về cơ bản không khác DT1, tương ứng ở các
điều 24 và 37 của DT1. Tuy nhiên DT4 bỏ đoạn của khoản 2 điều 37 DT1 “Nhà
nước có chính sách tạo điều kiện để công dân có nơi ở”. Điều 23 (về quyền
tự do đi lại và cư trú) của DT4 giữ nguyên nội dung của điều 25 DT1.
8,
Điều 24 (về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo) của DT4 tương ứng với điều 26 của
DT1, nội dung cơ bản không đổi, trừ đoạn “Nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn
giáo được pháp luật bảo hộ” của khoản 2 điều 26 DT1 (cũng là nội dung
trước đây của điều 70 Hiến pháp 1992) đã bị loại khỏi DT4.
Bình
luận: Đây là vấn đề
nhạy cảm, chúng tôi không rõ tại sao Ủy ban dự thảo lại loại bỏ nội dung này.
9,
Điều 25 của DT4 (về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình) về cơ bản giữ nguyên ý của điều 27 DT1.
Bình
luận: Những quyền này
là những quyền chính trị, dân sự rất quan trọng, lẽ ra phải được tách thành
những điều riêng, ghi rõ hơn, nhưng có vẻ Ủy ban dự thảo không quan tâm đến
những ý kiến của nhiều người về những quyền này.
10,
Điều 26 của DT4 (về bình đẳng giới) tương ứng điều 28 DT1, về cơ bản giữ nguyên
ý của DT1. Riêng đoạn của khoản 1, điều 28 DT1 “Công dân nữ và nam
bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội và gia đình” được rút gọn trong khoản 1 của điều 26 DT4 “Công dân
nam, nữ bình đẳng về mọi mặt”.
11,
Các điều 27, 28, 29 của DT4 (về quyền bầu cử, ứng cử, quyền biểu quyết khi
trưng cầu ý dân, quyền tham gia quản lý Nhà nước, xã hội, tham gia thảo luận,
kiến nghị) tương ứng với các điều 29, 30, 31 của DT1, về cơ bản không khác nội
dung của DT1. Tuy nhiên, DT4 có bổ sung 02 ý :
a,
Thêm cụm từ “theo quy định của luật” đối với quyền ứng cử, bầu cử.
b,
Thêm điều kiện đủ 18 tuổi trở lên đối với quyền biểu quyết của công dân
khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Bình
luận: Quyền ứng cử, bầu
cử của công dân rất quan trọng, nhưng với việc bổ sung cụm từ trên, quyền này
có thể không còn là quyền đương nhiên (đặc biệt là quyền ứng cử).
12,
Điều 30 của DT4 (về quyền khiếu nại, tố cáo) tương ứng với điều 32 của DT1, có
điều chỉnh so với DT1, theo hướng giảm trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, công
chức, viên chức và cá nhân có thẩm quyền khác khi tiếp nhận và giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Cụ thể DT4 đã bỏ cụm từ “kịp thời, đúng pháp luật” được DT1
ghi sau cụm từ “tiếp nhận, giải quyết”.
Bình
luận: Lẽ ra phải tăng
trách nhiệm, trong đó khả năng xử lý những cá nhân có thẩm quyền không tiếp
nhận hoặc giải quyết không đúng hạn, đúng pháp luật, DT4 đã tạo điều kiện để
những người này tiếp tục phớt lờ nghĩa vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo như bấy
lâu nay mà không lo bị truy cứu trách nhiệm. Mặt khác, quyền khởi kiện ra
Tòa án là một quyền dân sự, chính trị rất quan trọng cần được bảo đảm
đã không được ghi nhận trong DT4 (kể cả trong chương về Tòa án, Viện kiểm sát).
Rõ ràng những khiếm khuyết này đã không đảm bảo được những đặc tính của Nhà
nước pháp quyền.
13,
Điều 31 của DT4 (về quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy
tố, xét xử) tương ứng với điều 33 của DT1, nội dung có điều chỉnh đôi chút, đưa
ra khái niệm người bị buộc tội. Theo chúng tôi, văn phong của điều 31
của DT4 kém văn phong của DT1 và chưa khắc phục được sai sót của DT1. Xin đưa
ra 02 dẫn chứng:
a,
Khoản 1 điều 33 của DT1 “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” bao quát và chính xác hơn
khoản 1 điều 31 của DT4 “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến
khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Vì thực tế có
những người không bị buộc tội (chưa bị khởi tố, truy tố) nhưng vẫn bị nhà chức
trách, báo chí xử sự như họ đã có tội.
b,
Khoản 3 điều 31 DT4 giữ nguyên đoạn “ không ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm”của khoản 3 điều 33 DT1. Quy định này không chính xác, lẽ ra phải viết
không ai bị kết án hai lần vì một hành vi phạm tội.
Bình
luận: Chúng tôi cho
rằng việc tước tự do, buộc tội và xét xử cần quy định rất rõ trong Hiến pháp
như trong Hiến pháp nhiều nước và trong Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị (Việt Nam gia nhập năm 1982). Công ước quốc tế này có
53 điều, có ít nhất 07 điều điều chỉnh về những vấn đề trên. Đáng tiếc DT4 đã
chưa đáp ứng được tầm quan trọng của những vấn đề này. Chúng tôi sẽ trở lại vấn
đề này trong một bài khác.
14,
Các điều 32, 33 của DT4 (về quyền sở hữu, quyền kinh doanh) tương ứng với các
điều 34, 35 DT1, có 03 điều chỉnh đáng kể so với DT1:
a,
Thêm vào khoản 1 điều 32 DT4 đoạn “đối với đất đai thì theo quy định
tại Điều 53 và Điều 54” so với điều 34 DT1.
b,
Quy định quyền trưng mua, trưng dụng của Nhà nước (bồi thường theo giá
thị trường) thành một khoản của điều 32 DT4 (DT1 quy định về vấn đề này ở điều
57 khoản 3).
c,
Bỏ quy định Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh (trong khoản 2 điều
35 DT1) ra khỏi điều 33 DT4.
Bình
luận: Những điều chỉnh
đáng kể này không có lợi hơn cho công dân (tăng quyền, giảm trách nhiệm cho Nhà
nước).
15,
Các điều 34 (về an sinh xã hội), điều 35 (về việc làm), điều 36 (về hôn nhân,
gia đình), điều 37 (về trẻ em, thanh niên, người cao tuổi) của DT4 được thiết
kế để thay thế các điều 36, 38, 39, 40 của DT1. Nói chung, DT4 về những vấn đề
này có những điều chỉnh nhất định so với DT1 như thêm quy định trẻ em được
tham gia các vấn đề về trẻ em (khoản 1 điều 37 DT4), thanh niên được Nhà
nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát
triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công
dân, đi đầu trong công cuộc lao động và bảo vệ Tổ quốc (khoản 2 điều 37
DT4), nhưng chuyển quy định như Nhà nước và xã hội có trách nhiệm giúp đỡ
người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người
nghèo (khoản 2 điều 36 DT1) sang điều 59 khoản 2 DT4, bỏ quy định Nhà
nước có chính sách, pháp luật bảo đảm quyền trẻ em (khoản 2 điều 40 DT1)
16,
Các điều 38 (về sức khỏe, y tế), điều 39 (về học tập), điều 40 (về quyền nghiên
cứu khoa học, công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật), điều 41 (về quyền hưởng
thụ, sử dụng, tiếp cận giá trị văn hóa), điều 42 (về quyền xác định dân tộc,
lựa chọn ngôn ngữ), điều 43 (về quyền và nghĩa vụ về môi trường) của DT4 tương
ứng với các điều 41, 42, 43, 44, 45, 46 của DT1.
DT4
có một số điều chỉnh không đáng kể so với DT1 về những vấn đề này. Như một số
nội dung liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước trong các điều khoản
trên của DT1 được chuyển sang chương III (kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục,
khoa học, công nghệ và môi trường) hoặc bỏ quy định “học sinh có năng khiếu
được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng” của
khoản 2 điều 42 DT1.
17,
Các điều 44 (trung thành với Tổ quốc), điều 45 (bảo vệ Tổ quốc), điều 46 (tuân
thủ pháp luật), điều 47 (nghĩa vụ nộp thuế) của DT4 tương ứng với các điều 47,
48, 49, 51 của DT1. Có sự điều chỉnh đôi chút trong những quy định này của DT4
so với DT1 như trong DT4 chuyển vị trí điều khoản quy định nghĩa vụ tuân thủ
pháp luật (điều 47 DT1) từ trước sang sau những điều khoản về trung thành với
Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc (điều 48, 49 DT1), DT4 bỏ quy định của điều 50 DT1
(nghĩa vụ giữ gìn, bảo vệ khối đại đoàn kết, nghĩa vụ cộng đồng) trong chương
II này. Riêng quy định về nghĩa vụ nộp thuế của DT4 ghi thêm “theo luật
định”.
18,
Các điều 48 (về người nước ngoài cư trú ở Việt Nam), điều 49 (về người nước
ngoài bị bức hại xin cư trú tại Việt Nam) của DT4 giữ nguyên nội dung của các
điều 52, 53 tương ứng của DT1.
Nhận
xét chung về chương II của DT4 ( so với DT1):
-
Có một số điều chỉnh nhưng không đáng kể, không quan trọng.
-
Một số điều chỉnh ảnh hưởng theo hướng không tích cực đối với quyền con người,
quyền công dân.
-
Nhiều quyền con người, quyền công dân cần quy định rõ hơn theo thông lệ quốc tế
(đặc biệt những quyền đã được ghi trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia) đã không được đáp ứng trong DT4.
-
Một số trách nhiệm từ phía Nhà nước để đảm bảo quyền con người, quyền công dân
đã không được tăng lên mà có xu hướng giảm nhẹ.
-
Tiếp tục có mâu thuẫn (như DT1) khi xác định hạn chế của quyền con người, quyền
công dân chỉ trong những trường hợp nhất định theo quy định của luật (điều
14 của DT4), nhưng ở nhiều điều khoản lại quy định quyền con
người, quyền công dân được quy định theo pháp luật, đặc biệt đó
là những quyền cơ bản quan trọng như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
quyền hội họp, lập hội, biểu tình, quyền tự do đi lại, cư trú. Những quy định
mâu thuẫn như vậy mở đường hoặc hợp thức hóa cho những văn bản pháp quy dưới
luật hạn chế nhiều quyền con người, quyền công dân cơ bản hoặc khiến những
quyền đó trở nên không thực hiện được trên thực tế, chỉ tồn tại trên giấy
như hiện nay.
Hà Nội, ngày
23/10/2013
Trần Vũ Hải
Những bài viết của LS Trần Vũ Hải nhân Kỳ họp 6 Quốc hội
Khóa 13 (Bài 3)
Bình
luận tiếp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sau đúng một năm tiếp thu, chỉnh lý
(từ chương III đến hết Dự thảo)
Kết
quả của một năm rầm rộ góp ý, chỉnh lý của Dự án sửa đổi Hiến pháp 1992
với chi phí chi phí ít nhất lên đến nhiều trăm tỷ đồng (đã có hàng chục
triệu bản Dự thảo Hiến pháp được in để chuyển đến các hộ dân và có hàng trăm
nghìn cuộc họp góp ý) là một bản Dự thảo 4 được trình ra Quốc hội với nội dung
cơ bản như Dự thảo 1.
I/. Chương III ( Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học,
công nghệ và môi trường)
1, Chương III của Dự thảo 1 đề ngày 18/10/2012 (“DT1”) có 16
điều từ điều 54 đến điều 69. Chương III của Dự thảo 4 đề ngày 17/10/2013
(“DT4”) có 14 điều từ điều 50 đến điều 63, rút ngắn 02 điều so với DT1. Sự khác
biệt giữa hai Dự thảo này ở chương III chủ yếu do sự sắp xếp lại một số quy
định của DT1 ở chương II vào chương III của DT4 và ngược lại. Tuy nhiên, liên
quan đến chương III có một số điều chỉnh đáng kể được liệt kê dưới đây.
2, Điều 55 DT1 bê gần nguyên si một số nội dung của Cương lĩnh
2011 của Đảng cộng sản Việt Nam, có liệt kê những thành phần kinh tế. Trong khi
điều 51 DT4 (tương ứng với điều 55 DT1) không liệt kê những thành phần kinh tế,
nhưng vẫn xác định (như DT1) nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa… kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo….Các chủ thể
hoạt động kinh tế thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh
theo pháp luật…
Bình luận:
Điều khoản này chứa đựng những nội dung mâu thuẫn và không rõ về pháp lý. Cụ
thể không rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Và
kinh tế nhà nước bao gồm những gì? Kinh tế nhà nước là thành phần
chủ đạo, vậy làm thế nào để bình đẳng với các thành phần kinh tế khác?
3, Khoản 2 điều 57 DT1 “Nhà nước thực hiện chính sách
chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh” đã
bị loại bỏ khỏi chương III DT4.
Bình luận:
Không rõ Nhà nước Việt Nam định gửi thông điệp gì cho nhân dân và các nhà
đầu tư thông qua việc loại bỏ nội dung quan trọng này.
4, Việc thu hồi đất theo khoản 3 điều 59 DT1 có các trường hợp: vì
lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, khoản 3 điều 54 DT4 bổ
sung thêm các trường hợp: vì lợi ích công cộng, phát triển kinh tế – xã hội.
So với DT1, DT4 bổ sung thêm trưng dụng đất trong trường hợp đặc biệt do
luật định.
Bình luận:
Bộ luật Dân sự Việt Nam đã thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại tài sản – quyền
tài sản (nhưng Bộ luật này xác định đất đai thuộc sở hữu Nhà nước,
không ghi là sở hữu toàn dân như Hiến pháp 1992). Hiến pháp 1992 không quy định
về thu hồi đất. Với việc ghi và điều chỉnh như trên trong DT4, không rõ quyền
sử dụng đất có còn được coi là một loại tài sản hay không? Rõ ràng, so
với DT1, DT4 là một bước lùi trong việc đảm bảo quyền sử dụng đất của người
dân.
5. DT4 không khắc phục được nhược điểm của chương III DT1, khi
có nhiều điều khoản là những nội dung mang văn phong của một văn kiện chính
trị, không phải của một văn bản pháp lý quan trọng (nhất), ví dụ như điều 50
DT4 cơ bản giữ nguyên nội dung của điều 54 DT1 “Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội
nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”, hoặc như điều 60 DT4 (lấy ví dụ khoản 1) ghi “Nhà
nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Nhận xét chung: Ngoài vài điều chỉnh đáng kể nêu trên, DT4 không thay đổi
nhiều so với DT1 liên quan đến chương III. Việc tiếp tục quy định kinh tế nhà
nước là chủ đạo, không công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai (ít nhất là
đất ở), mở rộng phạm vi thu hồi đất là những nội dung quan trọng của DT4. Nếu
tiếp tục thông qua Hiến pháp theo hướng như vậy, tất yếu sẽ khó giải quyết được
những vấn đề nổi cộm, bế tắc chưa giải quyết được như hiện nay (gánh nặng của
doanh nghiệp nhà nước và những hậu quả phức tạp của việc thu hồi đất) trong
thời gian tới.
II/. Chương IV (Bảo vệ Tổ quốc)
Chương IV DT4 gồm 5 điều từ điều 64 đến điều 68, tương ứng với 5
điều từ điều 70 đến điều 74 DT1. Về cơ bản, chỉ có một số chỉnh sửa câu từ giữa
hai Dự thảo. Đáng chú ý có những điểm chỉnh sửa dưới đây:
a, Điều 65 DT4 bổ sung cụm từ “với Đảng và Nhà nước” sau
đoạn “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân
dân” (điều 71 DT1 không có cụm từ này).
b, Theo điều 66, quân đội gồm lực lượng thường trực hợp lý,
lực lượng dự bị động viên và có thêm dân quân tự vệ (theo DT1 và
Hiến pháp 1992, lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ có vẻ thuộc một
nhóm không đồng nhất với quân đội).
c, Điều 74 DT1 (và Hiến pháp 1992) chỉ nhắc đến công nghiệp
quốc phòng, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng. Điều 68
DT4 đã điều chỉnh, đưa ra những khái niệm mới công nghiệp quốc phòng – an
ninh, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Vấn đề đặt ra: An ninh kết hợp với kinh tế và kinh tế kết hợp với an
ninh là như thế nào?
III/. Chương V (Quốc hội)
Chương V DT4 (từ điều 69 đến điều 85) về cơ bản không khác
chương V DT1(từ điều 75 đến điều 91). Chỉ có vài sự khác biệt như vị trí một số
khoản trong một điều được hoán đổi hoặc chỉnh sửa một số câu từ. Ví dụ điều 74
DT4 (tương ứng điều 80 DT1) có khoản 7 quy định về thẩm quyền thành lập, tách,
nhập đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, trong khi điều 80 DT1 quy định vấn đề này
tại khoản 9.
Tuy nhiên, có một sự chỉnh sửa đáng tiếc ở điều 77
DT4 so với điều tương ứng là điều 83 DT1. Theo điều 83 DT1, Hội đồng dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án
Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm
toán Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức và tổ chức, cá nhân khác
cung cấp thông tin hoặc giải trình. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm nghiên cứu và trả lời kiến nghị của Hội đồng dân tộc, các Uỷ
ban của Quốc hội, báo cáo hoặc giải trình về các vấn đề mà Hội đồng dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội yêu cầu.
Trong khi điều 77 DT4 chỉ quy định Hội đồng dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viên chức nhà
nước hữu quan khác báo cáo, giải trình hoặc cung cấp tài liệu về những vấn
đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó. Các
cơ quan nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời những kiến nghị, yêu
cầu của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.
Có vẻ DT4 đã ghi không chính xác cụm từ viên chức nhà nước
hữu quan khác trong điều 77 DT4 (thay từ viên chức có thể là cán
bộ, công chức hoặc người đứng đầu cơ quan nhà nước hữu quan khác).
Theo chúng tôi, ghi theo điều 83 DT1 sẽ mở rộng phạm vi hoạt
động của các Ủy ban (như nhiều Ủy ban của Quốc hội các nước khác). Ví dụ, Ủy
ban về Môi trường của Quốc hội có quyền yêu cầu một doanh nghiệp vi phạm nghiêm
trọng về môi trường đến phiên họp công khai của Ủy ban báo cáo, giải trình
về vụ vi phạm (như vụ Nicotex Thanh Hóa), mời các chuyên gia về pháp luật, môi
trường nghiên cứu và trả lời về xử lý vụ vi phạm. Nếu có thẩm quyền như vậy,
nhiều vụ việc gây bức xúc cho dư luận, nhân dân sẽ được kịp thời mổ xẻ công
khai tại các Ủy ban của Quốc hội.
IV. Chương VI (Chủ tịch nước)
Chương VI DT4 (từ điều 86 đến điều 93) về cơ bản không khác
chương VI DT1 (từ điều 92 đến điều 99).
V. Chương VII (Chính phủ)
1, Chương VII DT4 (từ điều 94 đến điều 101) về cơ bản không khác
nhiều so với chương VII DT1(từ điều 100 đến điều 107), chỉ thay đổi một số
câu từ, vị trí khoản và vài điều chỉnh, bổ sung khác (được liệt kê
dưới đây).
2, Điều 95 DT4 về thành phần Chính phủ tương ứng với điều 101
DT1 có những điều chỉnh, bổ sung (so với điều 101 DT1) như:
a, Xác định Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ,
chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ
được giao
b, Quy định Phó Thủ tướng
chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ
c, Bộ trưởng chịu
trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Quốc hội…..
3, Nội dung khoản 1 điều 104 DT1 “lãnh đạo công tác của Chính
phủ, các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban dân dân các cấp; định hướng
chính sách và điều hành hoạt động của Chính phủ” được điều chỉnh thành nội
dung khoản 1 và khoản 2 của điều 98 DT4. Theo đó Định hướng và điều hành
hoạt động của Chính phủ; lãnh đạo việc tổ chức thi hành pháp luật(khoản
1); Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà
nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của
nền hành chính quốc gia (khoản 2).
4, DT4 bổ sung tại điều 99 khoản 2 trách nhiệm của Bộ trưởng (so
với điều 106 DT1) thực hiện chế độ báo trước nhân dân về những vấn đề quan
trọng thuộc trách nhiệm quản lý.
VI. Chương VIII (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân)
Chương VIII DT4 (từ điều 102 đến điều 109) tương ứng với chương
VIII DTI (từ điều 108 đến điều 115) về cơ bản giữ nguyên nội dung của DT1. Có
vài khoản được rút ngắn nội dung, lược bỏ nội dung đã quy định ở chương khác
của DT4, chuyển đổi nội dung từ điều khoản này sang điều khoản khác. Thay đổi
đáng kể là lược bỏ quy định tại khoản 3 điều 108 DT1 “trong tình hình đặc biệt,
Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt” và cụm từ “trừ các
Viện kiểm sát quân sự” tại điều 115 DT1.
VII. Chương IX (Chính quyền địa phương)
1, Chương IX DT4 (từ điều 110 đến điều 116) tương ứng với chương
IX DT1 (từ điều 116 đến điều 120), so với DT1, là phần được thay đổi, điều
chỉnh nhiều nhất của DT4. Số điều của chương này được tăng lên từ 05 điều của
DT1 lên 07 điều của DT4.
2, Có những thay đổi, điều chỉnh đáng chú ý sau:
a, Với quy định tại khoản 1 điều 111 DT4 “Chính quyền
địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính –
kinh tế đặc biệt”, mở khả năng cho phép tổ chức chính quyền địa phương ở đô
thị khác ở nông thôn.
b, Với quy định tại khoản 1 điều 114 DT4 “Uỷ ban nhân dân do
Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu hoặc do Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê
chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp”, cho phép khả
năng không nhất thiết hình thành Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân song hành
ở mọi cấp hành chính (Hội đồng nhân dân không nhất thiết hình thành ở mọi cấp
hành chính).
c, Theo khoản 2 điều 114 DT4, Ủy ban nhân dân ngoài chức năng cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
được giao tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương.
3, Ngoài những thay đổi, điều chỉnh nêu trên, những sửa
đổi, điều chỉnh khác của chương IX DT4 so với DT1 không đáng kể, chủ yếu thay
đổi vị trí điều khoản, ngôn từ.
VIII. Chương X ( Hội đồng bầu cử quốc gia, kiểm toán Nhà nước).
Chương X DT4 gồm 2 điều 117 và 118 tương ứng với chương X DT1
(từ điều 121 đến điều 124). Chương này của DT4 không thay đổi nội dung gì so
với DT1, ngoài việc rút gọn từ 4 điều trong DT1 xuống 2 điều.
IX. Chương XI (Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp)
Chương XI DT4 gồm 2 điều 119 và 120 tương ứng với các điều 125
và 126 chương XI DT1. Ngoài bổ sung thêm đoạn “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp
đều bị xử lý” và một vài điều chỉnh lặt vặt về câu từ, chương
này không thay đổi so với DT1.
Bình luận:
Quy định bổ sung trên khá quan trọng, nhưng không có cơ chế giải quyết, phán
quyết khi DT4 đã loại bỏ cơ chế bảo hiến ra khỏi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
trình Quốc hội (sau khi đã được nhắc trong các Dự thảo 2 và Dự thảo 3 của Dự án
sửa đổi Hiến pháp).
X. Nhận xét chung về những chỉnh lý, tiếp thu của DT4 so với DT1
sau một năm lấy ý kiến các cơ quan Nhà nước và nhân dân:
1, DT4 không có thay đổi, điều chỉnh đột phá nào so với DT1.
2, Có vài thay đổi, điều chỉnh đáng kể (về chính quyền địa
phương, mở rộng phạm vi thu hồi đất….) và một số thay đổi, điều chỉnh không
đáng kể. Nhìn chung, trừ thay đổi, điều chỉnh về chính quyền địa phương (nhưng
chưa rõ nét), những thay đổi, điều chỉnh trong DT4 so với DT1 không theo chiều
hướng tốt hơn đối với quyền con người, quyền công dân, thể chế kinh tế, thể chế
chính trị.
3, Một số góp ý quan trọng cho Dự án sửa đổi Hiến pháp đã từng
được ghi nhận trong DT2, DT3 và một Dự thảo khác (đã được hình thành nhưng chưa
thấy công bố công khai) đã không thấy xuất hiện trong DT4 (đặc biệt cơ chế bảo
hiến).
4, Nhiều nội dung góp ý tích cực, đột phá không chỉ từ nhóm Kiến
nghị 72 (và một số nhóm công dân khác), mà còn từ một số
cơ quan, tổ chức như Chủ tịch nước, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc… đã không được
ghi nhận trong DT4 (chúng tôi sẽ trở lại về nội dung này cũng như so sánh giữa
Hiến pháp hiện hành và DT4 trong những bài viết sau).
5, Kết quả của một
năm rầm rộ góp ý, chỉnh lý của Dự án sửa đổi Hiến pháp 1992 với chi phí
ít nhất lên đến nhiều trăm tỷ đồng (đã có hàng chục triệu bản Dự thảo Hiến pháp
được in để chuyển đến các hộ dân và có hàng trăm nghìn cuộc họp góp ý) là một
bản Dự thảo 4 được trình ra Quốc hội với nội dung cơ bản như DT1.
Hà
Nội, ngày 25/10/2013.
Trần Vũ Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét