Chuyến thăm và làm việc tại Việt
Nam, ngày 18-29/11/2013
Các kết luận và khuyến nghị sơ bộ
Hà Nội, ngày 29
tháng 11 năm 2013.
Thưa báo giới, thưa các quý bà quý ông,
Tôi rất vui mừng
được chia sẻ với quý vị kết quả quan sát sơ bộ của tôi khi kết thúc chuyến thăm
chính thức trong 12 ngày với tư cách là Báo cáo viên Đặc
biệt về các quyền văn hoá.
Tôi xin được bắt đầu bằng lời cảm ơn trân
trọng gửi tới Chính phủ Việt Nam đã mời tôi tới thăm và làm việc chính thức, và
cũng cảm ơn Chính phủ đã nỗ lực rất nhiều trong việc hỗ trợ sắp xếp chương
trình làm việc cũng như bố trí các cuộc họp toàn diện và lý thú.
Tôi xin được nhấn
mạnh tầm quan trọng của lời mời này. Việc đảm bảo quyền thụ hưởng văn hoá của tất
cả mọi người là một vấn đề phức tạp và để hoàn thành nhiệm vụ này là việc không
hề dễ dàng. Điều này đã được minh chứng qua các chủ đề cụ thể tôi đã đề cập đến trong suốt chuyến thăm của
mình, đó là: quyền được thụ hưởng nghệ thuật, tự do sáng tạo và biểu đạt nghệ thuật, quyền của người dân
trong việc thể hiện bản dạng
văn hoá của họ, và quyền tiếp cận và thụ hưởng di sản văn hoá của chính họ cũng
như của người khác, vấn đề về dạy lịch sử trong nhà trường, và tác động của du lịch
đối với việc thụ hưởng các quyền văn hoá.
Trong suốt chuyến thăm và làm việc của tôi
tại Việt Nam, Tôi đã đi thăm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội An, Sa Pa, cũng
như một số làng bản ở Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam và Lào Cai. Tôi đã có cơ hội gặp
mặt và làm việc với nhiều quan chức Chính phủ ở cấp quốc gia và địa phương, phụ
trách các lĩnh vực văn hoá, du lịch, giáo dục, thông tin truyền thông, công tác
dân tộc thiểu số, cũng như rất nhiều quan chức khác của Uỷ ban nhân dân các cấp,
Ban Tuyên Giáo Trung Ương của Uỷ ban Trung ương Đảng, đại biểu quốc hội và đại
diện các hội và hiệp hội. Tôi cũng đã gặp gỡ với các nghệ sĩ, giới học giả,
giám đốc và cán bộ công tác tại các viên nghiên cứu hoặc các thiết chế văn hoá,
đại diện của xã hội dân sự, thành viên của các cộng đồng dân tộc, những người
tham gia trực tiếp vào lĩnh vực du lịch, và các cơ quan của Liên Hợp Quốc. Tôi
xin trân trọng cảm ơn tất cả các cá nhân và tổ chức đã dành thời gian gặp mặt,
tiếp đón nồng nhiệt, và trên hết là đã nhiệt tình chia sẻ với tôi rất nhiều
thông tin.
Tôi xin được làm rõ rằng tôi là chuyên gia
độc lập thực hiện báo cáo cho Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc và Hội Đồng Nhân Quyền
của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam vừa trúng cử thành viên của Hội đồng ngay trong
tháng này. Mặc dù được Hội Đồng Nhân Quyền bổ nhiệm, nhưng tôi không phải nhân
viên chính thức của Liên Hợp Quốc và vị trí hiện tại tôi của tôi là vị trí danh
dự. Tư cách độc lập của tôi có vai trò rất quan trọng và nó cho phép tôi thực
hiện các chức năng nhiệm vụ của mình một cách trung lập.
Ngày hôm nay, tôi sẽ chỉ đưa ra một số ý kiến
ban đầu của mình. Ngoài ra, tôi sẽ tiếp tục phát triển các ý kiến đánh giá của
mình trong báo cáo chính thức, khi đó tôi mới đưa ra các khuyến nghị cụ thể.
Tôi sẽ trình bày báo cáo này tại kỳ họp lần thứ 25 của Hội Đồng Nhân Quyền vào
tháng 3 năm 2014 tại Geneva.
Thưa quý vị,
Việt Nam hiện đang ở một thời khắc quan trọng,
tại đó các bạn đạt được những tiến bộ to lớn về phát triển kinh tế, xoá đói giảm
nghèo ở các khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa, và đã có nhiều nỗ lực hướng
tới việc hoàn thành các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Những tiến bộ này là vô cùng ấn
tượng. Tôi có thể lấy dẫn chứng là ở các bản làng nông thôn mà tôi đã đến thăm,
đường xá đã được xây dựng nhiều, trường học được thành lập và nhiều nhà cửa đã
được hỗ trợ hoặc tu sửa.
Tôi tin rằng các chương trình như vậy sẽ trở
nên hiệu quả hơn nữa nếu sự tham gia của các cộng đồng địa phương và việc sử dụng
tri thức của họ, trong đó có cả tri thức truyền thống, được đảm bảo. Sự cứng nhắc
trong quá trình thiết kế và thực hiện các chương trình, cùng với hướng tiếp cận
từ trên xuống đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của các chương trình này.Ví dụ,
ở các làng, bản thường xuyên bị lũ lụt thì các mô hình nhà truyền thống của người
dân thích hợp với đối phó lũ hơn rất nhiều so với mô hình nhà mà các chương
trình hỗ trợ của chính phủ đang khuyến khích.Tôi đánh giá cao việc phát huy kiến
trúc truyền thống trong việc xây các nhà văn hoá ở khu vực Tây Nguyên. Tuy
nhiên, tôi khuyến khích Chính phủ nên
cho người dân được thực sự lựa chọn mô hình kiến trúc mà họ muốn, dù là truyền
thống hay hiện đại,đối với ngôi nhà riêng của họ, khi Chính phủ mở rộng các
chương trình hỗ trợ về nhà ở. Nói tổng quát hơn, tôi khuyến khích Chính phủ cần
đảm bảo có nhiều sự linh hoạt hơn trong chính sách và tham vấn thực sự với các
cộng đồng có liên quan khi phát triển các chương trình. Cần xây dựng một mô
hình thực hành mới trong đó người dân có được không gian để đóng góp vào việc
thiết kế các chương trình có ảnh hưởng to lớn tới lối sống của họ.
Tôi tin rằng Chính phủ cũng như nhiều bên
liên quan khác trong xã hội Việt Nam đã để ý thấy các chương trình phát triển
có thể có tác động tiêu cực đối với các quyền văn hoá của con người, đặc biệt
là các quyền của các dân tộc thiểu số. Chính phủ cần nỗ lực nhiều hơn nữa trong
việc xác định và giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực này để cho đất nước được hưởng
lợi đầy đủ từ chính sức mạnh của các nền văn hoá đa dạng của các dân tộc nhằm
thúc đẩy phát triển bền vững.
Điều này có liên quan mật thiết đối với
lĩnh vực du lịch.Với việc sử dụng văn hoá như một nguồn lực để phát triển, Việt
Nam đang hấp dẫn một số lượng ngày càng nhiều khách du lịch trong nước và quốc
tế. Rất nhiều chương trình đã được phát triển nhằm giúp người dân của các cộng
đồng dân tộc bán được sản phẩm nghề thủ công của họ và tiếp cận được với thị
trường, cũng như biểu diễn minh hoạ văn hoá truyền thống của họ thông qua nhiều
lễ hội và chương trình biểu diễn khác nhau. Điều này đã cho phép các cộng đồng
tham gia vào quá trình phát triển kinh tế ở khu vực họ sinh sống, và cũng giúp
Chính phủ thúc đẩy hình ảnh về một đất nước đa văn hoá.
Tuy vậy, nhiều thách thức vẫn còn đó. Như
quý vị đã biết, tôi đã đi thăm Sa Pa và các làng bản xung quanh. Ở đó, tôi có
thể thấy rằng, mặc dù du lịch đã mang lại nguồn sinh kế phụ trợ cho người dân địa
phương, nhưng họ lại không phải là đối tượng hưởng lợi chủ yếu từ nguồn doanh
thu này. Cần có các biện pháp đảm bảo rằng những người dân mà di sản của họ được
đem ra sử dụng để thúc đẩy du lịch, phải được trao quyền để quản lý các hoạt động
này theo hướng có lợi nhất cho họ.
Ngoài ra, tôi cũng đặc biệt quan ngại đối với
những tình huống trong đó con người ta được yêu cầu trình diễn chứ không phải
thực sống đời sống văn hoá riêng của họ, hoặc là để lưu giữ một cách mô phỏng một
số khía cạnh cụ thể trong văn hoá của họ để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch,
hoặc, ngược lại, thay đổi một số khía cạnh cụ thể trong văn hoá của họ nhằm thoả
mãn các nhu cầu đó ví dụ như thay đổi truyền thống ăn ở, hay rút ngắn việc thực
hiện một số tập quán, hoặc bán vé cho những người muốn tham gia. Tôi muốn nói đến
ví dụ lễ hội đua bò Bảy Núi truyền thống của người Khmer ở một số tỉnh miền nam
Việt Nam.
Một ví dụ khác là về Cồng chiêng. Nhiều cộng
đồng ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên vẫn đang chơi Cồng chiêng và đã được UNESCO
công nhận là di sản văn hoá phi vật thể. Cồng chiêng được coi là một nhạc cụ
linh thiêng và quý giá, chỉ được đem ra chơi vào những dịp đặc biệt. Tuy nhiên
ngày nay Cồng chiêng còn được đem ra biểu diễn theo yêu cầu của khách du lịch ở
một số nơi, và rõ ràng điều này đã làm mất đi tầm quan trọng văn hoá ban đầu của
sinh hoạt này. Tôi thực sự thấy rằng trong những trường hợp như vậy, các cộng đồng
có liên quan phải được tham vấn là có nên trình diễn hay không, như thế nào,
bao giờ và ở đâu, và được chia sẻ các khía cạnh có liên quan đến di sản văn hoá
của họ.
Tất nhiên, khó có thể ngăn cản hoặc thậm
chí dù chỉ mong muốn ngăn cản sự tiến hóa của những thực hành văn hóa đang diễn
ra hàng ngày sống động khi các nhóm có sự giao lưu tương tác với nhau.Điều này
có thể là rất tích cực. Tuy nhiên, Chính phủ có trách nhiệm đảm bảo rằng du lịch
không dẫn đến chỉ còn sân khấu hóa những thực hành văn hóa, còn chủ nhân của
văn hóa chỉ đóng vai văn hóa của mình, hay vắn tắt hóa con người xuống thành một
số hình thức thể hiện văn hóa của họ mà không thừa nhận tính nhân văn trong đó.
Vì thế, rất cần phải để cho các cộng đồng tự
do phát triển văn hóa của họ, ở cả bên ngoài các khu vực phát triển du lịch.
Chính phủ nên hỗ trợ không chỉ các hoạt động biểu diễn văn hóa hay sản phẩm
truyền thống dành cho du khách mà cũng cần cùng với cộng đồng có liên quan,
trên cơ sở nguyện vọng của họ, xây dựng những chương trình để tiếp tục thực
hành văn hóa của họ nếu đó là nguyện vọng của họ. .
Tôi cũng quan ngại trước những trường hợp đời
sống và văn hóa của cộng đồng địa phương hoặc cộng đồng thiểu số đã bị các
chương trình phát triển phá vỡ hoàn toàn. Ví dụ, tôi được biết rằng người dân ở
giáo phận Cồn Dầu ở Đà Nẵng đã và vẫn đang tiếp tục bị cưỡng chế khỏi mảnh đất
họ đã sống lâu đời để dọn đường cho một dự án nhà ở tư nhân lớn. Tôi hy vọng rằng
chính phủ sẽ kịp thời can thiệp để giải quyết trường hợp cụ thể này. Nhìn chung
hơn, tôi khuyến nghị Chính phủ đảm bảo việc công nhận sở hữu tập thể đối với đất
đai cho những cộng đồng có ước muốn giữ và phát triển nếp sống truyền thống của
họ, thường là dựa vào nông nghiệp, vào rừng, chăn nuôi hay đánh cá.
Tôi cũng đã thảo luận một vấn đề nữa liên
quan đến định nghĩa thế nào là hủ tục hay tập quán không tốt cũng như “mê tín dị
đoan”. Theo tôi hiểu, những khái niệm này cần được làm rõ như là những thực
hành mâu thuẫn với các quyền con người hay hạ thấp nhân phẩm. Tôi cũng khuyến
khích chính quyền xác định những thực hành này thông qua các cuộc thảo luận với
những cộng đồng liên quan.
Tôi hoan nghênh những sáng kiến tích cực đã
được Chính phủ thực hiện. Những sáng kiến này bao gồm công việc của Viện Ngôn
ngữ học trong việc tài liệu hóa và bảo tồn các ngôn ngữ dân tộc thiểu số và xây
dựng các bộ chữ viết, cũng như dự án nghiên cứu thí điểm tiến hành cùng UNICEF
để thúc đẩy giáo dục song ngữ cho người H’mong, J’rai và Khmer, ba trong số những
nhóm thiểu số lớn, ở cấp mầm non và tiểu học. Nghiên cứu đã chứng minh, học
sinh được thụ hưởng những chương trình này có kết quả học tập tốt, và tôi khuyến
nghị mạnh mẽ với Chính phủ tiếp tục hỗ trợ dự án giáo dục song ngữ, mở rộng phạm
vi đến các nhóm khác, các khu vực khác và các cấp học khác. Đồng thời, một số
người đã thông tin cho tôi, qua đó bày tỏ quan ngại đối với bộ chữ đang được áp
dụng cho một số nhóm. Ở đây, một lần nữa, cách thức tích cực để giải quyết những
quan ngại đó là mời các nhà nghiên cứu và giới học thuật của chính những cộng đồng
dân cư liên quan tham gia vào quá trình ra quyết định.
Thưa quý bà, quý ông,
Một trong những vấn đề then chốt với Việt
Nam ngày nay là có một không gian cho các cuộc tranh luận và biểu đạt những
quan điểm đa nguyên.Một ví dụ rõ ràng liên quan đến vấn đề này, mà tôi rất quan
tâm, là việc dạy môn lịch sử với chỉ một bộ sách giáo khoa trong các nhà trường.
Như đã đề cập trong báo cáo chuyên đề của tôi về viết sách sử và dạy sử trước Đại
Hội Đồng Liên Hợp Quốc năm nay (A/68/296), việc dạy sử nên khuyến khích tư duy
phê phán, học tập từ phân tích và tranh luận, và tạo cách tiếp cận so sánh và
đa chiều hơn là ấn trẻ em vào quan điểm đơn chiều. Cách tiếp cận này đặc biệt cần
sử dụng rộng rãi nhiều loại học liệu, bao gồm nhiều loại sách giáo khoa của nhiều
nhà xuất bản. Tôi khuyến khích nhiều bên liên quan ở Việt Nam tham khảo báo cáo
này của tôi.
Tôi có ấn tượng tích cực rằng Chính phủ và
xã hội dân sự hiện nay đang nỗ lực định nghĩa lại biên độ không gian cho những
tiếng nói đa dạng có thể cất lên.Tôi khuyến nghị mạnh mẽ với Chính phủ mở rộng
hơn không gian ấy, trên cơ sở Hiến pháp của các bạn cũng như các tiêu chuẩn quốc
tế. Cơ chế chính trị và cấu trúc của chính quyền hiện nay ở Việt Nam, cùng với
rất nhiều các hội đoàn thể đang hoạt động chủ yếu như các phương tiện truyền đạt
những quyết định của chính phủ, để lại không gian rất nhỏ bé cho xã hội dân sự
tự biểu đạt mình, đặc biệt với những người làm công tác nghiên cứu hay các nghệ
sỹ và những người khác có thể có tư duy phê phán đối với những chính sách của
Chính phủ.
Đã đến lúc Việt Nam đảm bảo tự do nhiều hơn
cho các biểu đạt nghệ thuật cũng như cho các tự do học thuật, và cho phép những
tiếng nói đa dạng tìm được chỗ đứng của mình. Sự thiếu vắng các nhà xuất bản tư
nhân đã làm giảm đáng kể phạm vi cất lên của những tiếng nói độc lập có thể được
nghe thấy. Hiến pháp quy định những quyền cơ bản, nhưng thường rất khó có thể
thụ hưởng những quyền này do rất nhiều các quy định và sự thiếu rõ ràng cụ thể
trong quy định việc nào là chấp nhận được, việc nào là không.
Không may là các quy trình tư pháp vẫn chưa
giúp làm rõ những thước đo rõ ràng của các luật cụ thể.
Thưa các quý bà và quý ông,
Các nghệ sỹ có thể giải trí cho người dân, nhưng họ
cũng có thể đóng góp vào những tranh luận xã hội, đôi khi đưa ra những diễn
ngôn đối lập. Trong lúc tôi rất vui vì một số người cung cấp thông tin cho tôi
nói rằng họ đã thấy một không gian mở hơn để tự biểu đạt, tôi cũng quan ngại
sâu sắc trước tình trạng một số nghệ sỹ đã bị tầm soát, sách nhiễu, hoặc bị
giam giữ. Trong các cuộc thảo luận của tôi với chính quyền, ví dụ, tôi đã nêu
ra những trường hợp bị kết tội theo điều 88 Bộ luật Hình sự do “tiến hành tuyên
truyền chống lại Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Tôi muốn nhấn mạnh
rằng những biểu đạt nghệ thuật là một phần không thể tách rời của đời sống văn
hóa và là trái tim của những nền văn hóa sinh động cũng như trong hoạt động của
một xã hội dân chủ. Vì thế, tôi chân thành hy vọng rằng Chính phủ sẽ xem xét lại
chính sách của mình để đảm bảo tự do hơn cho các biểu đạt nghệ thuật và sáng tạo,
tuân theo những tiêu chuẩn quốc tế.
Tôi vô cùng biết ơn Chính phủ Việt Nam đã mời
tôi tiến hành chuyến thăm này, cho phép tôi được hiểu sâu thêm những vấn đề hết
sức nhạy cảm mà quan trọng. Lời mời của Chính phủ đã khẳng định việc Chính phủ thực
sự coi trọng những vấn đề liên quan đến thụ hưởng các quyền văn hóa. Tôi hiểu rằng
điều này thật sự rất khó khăn, đặc biệt thách thức với Chính phủ để đảm bảo “sự
đồng thuận” mà Chính phủ khuyến khích dựa trên những quan điểm, biểu đạt và văn
hóa đa dạng của người dân.
Nguồn bản tiếng Việt:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét