Nước còn hay mất?
Song Chi.
Sun, 06/28/2015 - 06:47
Bàn đến hiểm họa Trung Quốc, nhiều người cho
rằng thời đại bây giờ có lẽ cũng khó có chuyện một quốc gia nào đó ngang nhiên
đem quân đánh chiếm nước khác sau đó công khai áp đặt sự đô hộ hay cai trị của
mình lên quốc gia đó như thời xưa, hay thậm chí như thực dân, đế quốc trước
đây. Cùng lắm là đánh chiếm một phần lãnh thổ của nước khác, điều mà nước Nga
của Putin đã làm với Crimea của Ukraine, là ví dụ gần đây nhất.
Vì thế, chuyện Trung Cộng sẽ đem quân xâm lược
Việt Nam, biến VN thành một quận huyện của Trung Quốc như trong quá khứ là khó
có thể xảy ra. Thế giới chắc chắn không thể để yên cho một hành động ngạo ngược
như vậy và Trung Cộng có nhiều thứ để mất nếu hành động chống lại cả thế giới.
Nhưng liệu có cần thiết phải phát động một
cuộc chiến tranh tốn hao người và của khi Bắc Kinh biết rõ rằng họ có thể nắm
gọn được VN bằng nhiều cách khác, từ khống chế về chính trị, quân sự, tạo ra sự
lệ thuộc nặng nề về kinh tế cho tới gậm nhấm dần dần lãnh thổ, lãnh hải, điều
mà họ đã và đang tiếp tục tiến hành lâu nay?
Còn đối với dân tộc VN, có phải đợi đến lúc VN
bị đổi tên, người VN phải học một thứ ngôn ngữ khác, và có một thế lực ngoại
bang công khai ngồi đó cai trị thì mới là mất nước?
Hay trên thực tế, nước còn mà cũng như mất?
Khi người dân không được phép quan tâm đến chính trị vì “mọi chuyện đã có đảng
và nhà nước lo”, không được phép có ý kiến hay bày tỏ sự bất bình, phẫn nộ
trước mọi hành vi ngang ngược, xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền và sự toàn
vẹn lãnh thổ VN của “nước lạ”? Trái lại, nếu vì bất bình mà lên tiếng phản đối
thì lại bị chính nhà cầm quyền VN đàn áp, xách nhiễu, tống giam vào tù với
những bản án vô vùng phi lý, khắc nghiệt.
Khi suốt từ Nam ra Bắc, đâu đâu cũng thấy sự
hiện diện cách này hay cách khác của “nước lạ” Trung Quốc? Từ thực phẩm, hàng
hóa đủ loại tràn vào VN bằng mọi con đường, chính thức hay buôn lậu, đe dọa
trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất nội địa; từ việc các
doanh nghiệp lớn nhỏ của Trung Quốc thắng thầu phần lớn các công trình trọng
điểm của VN trong các lĩnh vực xây dựng, thủy điện, khai thác khoáng sản… dẫn
đến sự có mặt của hàng trăm, hàng ngàn công ty, khu công nghiệp và cả những khu
vực toàn người Trung Quốc, mà ngay cả chính quyền địa phương cũng không được
phép xâm nhập vào. Truyền hình VN từ đài trung ương đến đài địa phương tràn
ngập phim cổ trang, lịch sử cho tới phim truyện thời hiện đại của Trung Quốc,
các cửa hàng sách lớn nhỏ tràn ngập sách truyện dịch từ Trung Quốc…
Khi sự hiện diện của Trung Quốc không chỉ bao
trùm trong lĩnh vực kinh tế, một phần văn hóa, mà rõ rệt nhất là trong lĩnh vực
chính trị, thông qua mối quan hệ không tương xứng giữa hai đảng, hai nhà nước
Việt-Trung. Các thế hệ lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN tiếp nối nhau đều
mặc nhiên chấp nhận tình trạng bất tương xứng này và ngoan ngoãn phục tùng
Trung Quốc. Không chỉ nhất cử nhất động học theo mô hình thể chế xã hội của
Trung Quốc mà còn phải nghe theo những lời chỉ đạo từ xa, kể cả “cầm tay chỉ
việc” của Bắc Kinh từ thời chống Pháp, thời cải cách ruộng đất cho tới bây giờ
cũng không khá hơn. Bàn tay nhám nhúa của Trung Nam Hải còn thò sâu vào nội bộ
đảng cộng sản VN, mua chuộc, thao túng, gây chia rẽ, kẻ nào thân Tàu thì có cửa
leo cao tiến xa và ngược lại.
Thì như thế nước còn mà cũng như mất.
Khi tàu Trung Quốc ngang nhiên cướp bóc, đánh
chìm tàu, làm bị thương, bắt giữ người trên các tàu cá của ngư dân VN từ bao
nhiêu lâu nay, ngược lại, hàng ngàn tàu cá và tàu quân sự Trung Quốc ngang
nhiên đi lại trên vùng biển thuộc chủ quyền của VN mà nhà cầm quyền không hề
dám phản ứng mạnh.
Gần đây, trước thực trạng Trung Quốc ồ ạt biến
các đảo ngầm thành những hòn đảo nhân tạo và căn cứ quân sự trong tương lai,
tình hình trở nên hết sức đáng ngại nhưng quốc hội VN vẫn chỉ đóng cửa họp kín
về tình hình biển Đông và không dám đưa ra một nghị quyết phản đối mạnh mẽ nào.
Trả lời báo chí, ông Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc nói rằng“Quốc
hội sẽ tiếp tục theo dõi sát tình hình Biển Đông và nếu cần thiết sẽ ra Nghị
quyết về vấn đề này tại các kỳ họp sau”. ("Các kỳ Quốc hội sau sẽ
ra Nghị quyết về Biển Đông nếu cần thiết", Infonet).
Người dân tự hỏi không biết đến bao giờ thì
mới là cần thiết, đợi đến khi các căn cứ quân sự đã xây xong và giặc chiếm nốt
những hòn đảo còn lại của quần đảo Trường Sa hay khi giặc đã vào đến tận Hà
Nội?
Trong tháng 6, Trung Quốc lại đưa giàn khoan
Hải Dương 981 đến vùng biển VN, hoạt động tại vùng chồng lấn ở cửa vịnh Bắc Bộ
mà hai nước đang đàm phán phân chia ranh giới, nhưng lực lượng cảnh sát biển VN
chỉ dám theo dõi, tuyệt không dám “mời” ra khỏi lãnh hải nói gì đến phản ứng
mạnh hơn.
Thậm chí khi có cơ hội lên tiếng, chẳng hạn
như tại Đối thoại Shangri-la 2015 tại Singapore, phái đoàn VN do ông Thượng
tướng Nguyễn Chí Vịnh dẫn đầu lại có quan điểm “Lần này, VN lắng nghe
là chính, không phát biểu”(“Tướng Nguyễn Chí Vịnh: TQ cần hành xử đúng
luật quốc tế”, VietnamNet), thay vì nhân dịp này tố cáo trước quốc tế những
hành động xâm phạm chủ quyền đất nước và đe đọa đến hòa bình ổn định trong toàn
khu vực biển Đông của Bắc Kinh. Ông Vịnh lại còn cho rằng: “Càng căng
thẳng thì càng phải độc lập tự chủ. Càng căng thẳng thì càng không bao giờ để
kéo vào những liên minh với nước này để chống nước khác...”(“Thượng
tướng Nguyễn Chí Vịnh: Càng căng thẳng, càng phải độc lập tự chủ”, Tuổi
Trẻ). Trong khi ai cũng thấy rõ VN là nước đã, đang và sẽ chịu thiệt thòi nhiều
nhất trong việc Trung Cộng bành trướng trên biển Đông, VN cô độc và cần đến sự
giúp đỡ của thế giới như thế nào nếu phải đương đầu với Trung Quốc.
Thì như thế có nghĩa, nước còn mà cũng như
mất.
Khi từ các cấp lãnh đạo cao nhất cho đến từng
người dân VN chưa đánh đã mang tâm lý đầu hàng trước “Trung Quốc nó mạnh thế
đánh làm sao nổi?”, và tâm lý ngồi chờ. Nhà cầm quyền thì chờ Philippines đi
kiện Trung Quốc xem tình hình ra sao, chờ các nước khác lên tiếng giùm, nhất là
chờ Hoa Kỳ có những phản ứng mạnh mẽ có thể ngăn chặn được Trung Quốc. Hết chờ
các nước khác can thiệp lại mong chờ hão Trung Quốc sẽ nể tình mối quan hệ bao
lâu nay giữa hai đảng, hai nhà nước mà chiếu cố cho, không xâm lấn hơn nữa.
Còn người dân thì cũng ngồi chờ cho nhà nước
này tỉnh ngộ mà thoát ra khỏi mối quan hệ bị lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc.
Thậm chí có những người ngồi chờ Trung Quốc nổ ra chiến tranh, dù từ bên trong
hay bên ngoài, khiến cho chế độ hiện tại của Bắc Kinh phải sụp đổ, Trung Quốc
chuyển đổi thành một nước dân chủ thì khi đó VN và các nước láng giềng may ra
mới được yên ổn v.v và v.v…
Khi chúng ta không hành động gì mà chi ngồi
chờ…sung rụng như thế, thì nước còn mà cũng như mất, và sớm muộn gì cũng mất
thật!
Hay nói cách khác, cái giang sơn mà từng tấc
đất, ngọn cỏ, dòng sông, đều thấm máu của hàng triệu triệu người Việt qua
bao nhiêu cuộc chiến tranh với thiên nhiên để sinh tồn và những cuộc chiến
tranh ác liệt chống ngoại xâm, được gìn giữ, bảo vệ và phát triển qua hàng
ngàn năm thành một quốc gia trải dài từ Nam ra Bắc, ngày hôm nay, dưới chế độ
cầm quyền của đảng cộng sản, đã bị "teo tóp", mất mát dần vào tay
ngoại bang và trên thực tế chỉ còn lại cái vỏ độc lập giả hiệu bên
ngoài mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét