Cộng
hòa Liên bang Đức: Cơ chế chính trị-kinh tế và cách vận hành xã hội của một nước
Dân chủ Đa nguyên
Con đường nào, thể chế chính trị và
kinh tế nào biến trần thế thành thiên đàng hay biến thế gian thành địa ngục?
Câu trả lời đã rất
rõ khi nghiêm túc đối chiếu và so sánh trong mọi lãnh vực giữa Đức và VN trong
70 năm qua. Một bên là chế độ Dân chủ Đa nguyên và Kinh tế Thị trường, còn bên
kia là chế độ độc đảng
toàn
trị và Kinh tế Thị trường Định hướng XHCN!
Âu Dương Thệ
Đức và VN có một số điểm tương đồng. Về
mặt dân số và diện tích tương đối ngang ngửa với nhau, VN 331.114km² và gần 92
triệu dân, Đức 357.376km² và trên 81 triệu dân.[1]
Cả hai nước đều là sản phẩm của Thế chiến thứ 2 và Chiến tranh lạnh giữa Đông và
Tây, hay còn gọi là giữa Cộng sản và Tự do. Cả VN và Đức đều bị chia đôi.
Nhưng hai nước lại có những khác biệt rất
căn bản về nhiều mặt. Chế độ độc đảng toàn trị theo chủ nghĩa Cộng sản (CS) đã
dẫn VN lao vào các cuộc chiến tranh suốt 30 năm tàn khốc và hận thù. Nhiều triệu
người Việt ở cả hai miền đã bị hi sinh. Đất nước tuy thống nhất trên 42 năm
nhưng vẫn là một trong những nước rất nghèo, lợi tức đầu người năm 2016 là 1980
USD và người dân vẫn bị tước các quyền tự do dân chủ căn bản. Chế độ toàn trị với
Kinh tế thị trường (KTTT) Định hướng XHCN đã tạo ra nạn tham nhũng đang trở nên
bất trị. Nhân quyền và tự do báo chí ở mức rất tồi tệ đội sổ trên thế giới. Mới
vài ngày trước Quốc hội (QH) sửa đổi bộ Luật hình sự, bắt các luật sư phải tố
cáo thân chủ trong các tội giải thích rất cao su gọi là „tội xâm phạm an ninh quốc gia“. [2]
Ngay trước đó Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân đòi hỏi phải đưa việc này vào luật.
Trong khi đó chế độ Dân chủ Đa nguyên (DCĐN)
và KTTT đã làm Tây Đức hồi phục kinh tế-xã hội rất nhanh. Tuy bị chia cắt suốt
45 năm nhưng không có chiến tranh giữa Đông-
và Tây Đức. Từ 1990 nước Đức đã thống nhất không tốn một viên đạn. Không
có cảnh hàng trăm ngàn người phải bị giam cầm trong các trại cải tạo hết năm
này tới năm khác. Từ sau khi hai miền thống nhất, chủ trương đoàn kết và tương
trợ thay cho bạo lực và trả thù. Suốt trên ¼ thế kỉ người dân Tây Đức đã đóng
góp hàng ngàn tỉ Euro để tái thiết lại phía Đông. Đức đang là quốc gia có nền
kinh tế mạnh đứng thứ ba, thứ tư trên thế giới, là đầu tầu kinh tế của Liên
minh Âu châu (EU). Lợi tức đầu người ở Đức năm 2016 là 45.790 USD.[3]
Người đi làm đều có các bảo hiểm y tế, lao động, hưu trí…, nếu không thì có thể
xin trợ cấp xã hội. Đức còn là nước có nền dân chủ pháp trị và tự do báo chí rất
cao. Tuy chống đảng cực hữu mị dân mới ra đời vài năm AfD (Alternative für Deutschland:
Chọn lựa cho Đức), nhưng khi nhà cầm quyền ở một thành phố tìm cách cản trở cuộc
biểu tình của đảng này, chính bà Thủ tướng
(TT) Đức TS Merkel đã công khai chống lại và yêu cầu các cơ quan chính quyền địa
phương phải tôn trọng quyền này. Vì quyền biểu tình đã được Hiến pháp Đức
công nhận là một trong những quyền tự do căn bản của nhân dân.
***
Vì chủ nghĩa dân tộc cuồng tín và mị
dân nên Hitler đã biến Đức thành một chế độ độc tài tàn bạo nhất trong lịch sử
Đức, thực hiện tham vọng điên cuồng chinh phục Âu châu bằng vũ lực. Từ đó gây
ra Thế chiến thứ hai. Nhưng Hitler đã thảm bại và tự vẫn, Đức và Âu châu trở
thành đống tro.
Là nước chiến bại nên Đức bị chia 4,
phía Đông bị Hồng quân Liên xô chiếm, phía Tây dưới quyền kiểm soát của Mĩ,
Pháp và Anh. Từ đồng minh chống Hitler, Liên xô CS dưới quyền cai trị của bạo
chúa Stalin đã trở thành đối đầu với Hoa kì, Anh, Pháp là các nước theo DCĐN.
Chiến tranh lạnh khởi sự và cực kì căng thẳng ở Âu châu ngay sau khi Thế chiến
thứ hai chấm dứt.
Khi ấy dân tộc Đức ở phía Tây phải chọn
lựa một thế chế chính trị tương lai cho mình và cả Tây Âu cũng phải chọn lựa
thái độ với nước Đức bại trận. Tái lập chính sách của phe thắng trận như trong
Thế chiến thứ nhất (1914-18), chiếm đóng Đức và bắt phải bồi thường chiến tranh.
Nếu chọn giải pháp này là tiếp tục nuôi thù hận, xô đẩy các nước Tây Âu kình chống
lẫn nhau, như thế sẽ là cái mồi để Hồng quân Liên xô xâm chiếm và nhuộm đỏ cả
châu Âu!
Đứng trước kẻ thù cực kì nguy hiểm, lại
được Hoa kì hỗ trợ -một siêu cường nguyên tử đầu tiên khi đó, nên khi ấy các
chính khách lớn và các giới trí thức ở Pháp, Anh và Đức đã ý thức, đây chính là
thời cơ phải dựa vào nhau để ngăn chặn hiểm họa Cộng sản. Anh, Pháp, Đức và nhiều
nước Tây Âu đã dứt khoát tiếp tục hoặc triển khai thiết lập thể chế DCĐN, KTTT,
pháp trị và tự do báo chí. Hoa kì và các nước dân chủ Tây Âu đã cùng theo đuổi
các giá trị xã hội chung trên đây, nên kế hoạch Marshall về kinh tế đã ra đời để
tái thiết Tây Âu và Liên minh quân sự Bắc đại Tây dương (NATO) được thành lập để
cùng nhau ngăn chặn hiểm họa đỏ.
***
Hệ thống chính trị và kinh tế của Đức
được qui định trong Hiến pháp công bố ngày 23.5.1949 rút kinh nghiệm từ các
giai đoạn bất ổn và độc tài trước đó.[4]
Cộng hòa Đức ra đời là một liên bang với nhiều tiểu bang (hiện nay là 16 TB),
theo chính thể đại nghị và DCĐN. Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập
và bình đẳng với nhau. QH liên bang (Bundestag) là cơ quan có thẩm quyền cao nhất,
cứ bốn năm bầu một lần. Thủ tướng do Quốc hội liên bang (QHLB) bầu theo tỉ lệ
quá bán trong QH. TT chỉ định các bộ trưởng, quyết định đường lối và hoạt động
của chính phủ. Các bộ trưởng có quyền tự chủ trong các hoạt động của bộ và chịu
trách nhiệm trong lãnh vực của mình. Chính phủ liên bang có thẩm quyền chuyên độc
trong quốc phòng và ngoại giao. Các lãnh vực giáo dục, thuế vụ, giao thông, xã
hội … chia thẩm quyền giữa chính quyền Liên bang (LB) và các Tiểu bang (TB). Rút
kinh nghiệm đau thương trong quá khứ nên quân đội Cộng hòa liên bang Đức đặt dưới
quyền trực tiếp của QHLB. Việc gởi quân đội Đức ra tham chiến ở nước ngoài đều
phải do QHLB quyết định. Để tránh tình trạng quân đội bị lợi dụng, QHLB cử ra một
đại biểu theo dõi các hoạt động của quân đội và hàng năm tường trình tình hình
quân đội trước QHLB. Tổng thống Đức không do dân trực tiếp bầu lên, nhưng do Thượng
viện (Bundesrat) bầu 5 năm một lần, chỉ giữ vai trò nghi lễ ngoại giao. Chế độ
KTTT công nhận và tôn trọng quyền tư hữu, kinh tế tư nhân là nền tảng và tự do
cạnh tranh lành mạnh theo luật pháp được coi là động lực phát triển của toàn xã
hội.
Để tránh tình trạng QH bị xé lẻ, phân
tán quá nhiều các chính đảng dẫn tới tình trạng các chính phủ LB và TB không được ổn định, nên trong luật bầu
cử ở Đức có điều khoản 5%, nghĩa là muốn có đại diện vào QHLB hay Quốc hội tiểu
bang (QHTB) mỗi chính đảng phải được ít nhất 5% tổng số phiếu trong các cuôc bầu
cử liên hệ. Vì thế các nhóm cực hữu hay cực tả (CS) thường không có đại diện
trong các QHLB, nay chỉ vài tiểu bang nhóm cực hữu có đại diện, nhưng hầu như
không có ảnh hưởng. Điểm đặc biệt nữa là, trong các cuộc bầu cử QHLB và TB mỗi
cử tri có quyền sử dụng hai lá phiếu, một phiếu bỏ cho ứng cử viên mình ủng hộ
và phiếu thứ hai bỏ cho chính đảng mình tín nhiệm. Tùy theo tỉ số phiếu bầu cho
đảng, các chính đảng có thể cử thêm đại diện vào QH, ngoài các ứng cử viên thắng
cử trực tiếp. Đây là giải pháp dung hòa để một cử tri có thể thích ứng cử viên
A, nhưng lại không ưa chính đảng của ông A… Sau Thế chiến 2 trong các QHLB và
TB ở Đức chỉ có ba chính đảng chính là Liên minh Thiên chúa giáo (CDU/CSU), đảng
Dân chủ Xã hội (SPD) và đảng Tự do (FDP). Từ thập niên 80 đảng Xanh (die
Grünen) ra đời, nay có đại diện trong QHLB và nhiều tiểu bang. Từ khi Đức thống
nhất có thêm đảng Tả (die Linke), đảng viên phần chính từ cựu Đông Đức CS, có đại
diện trong QHLB và một số QHTB.
Đảng SPD là chính đảng lâu đời nhất, xuất
thân từ các phong trào lao động hai thế kỉ trước, nhưng các nhà lãnh đạo sau
này đã dứt khoát từ bỏ đường lối bạo lực và chủ trương giành chính quyền bằng
phương pháp đấu tranh dân chủ. Khẩu hiệu nổi tiếng của SPD là không thể dùng bạo
lực để tiêu giệt giai cấp này và hình thành giai cấp mới. Các TT nổi tiếng của
SPD là W. Brandt, H.Schmidt và H. Schröder. "[5]
Từ sau Thế chiến 2 Liên minh CDU/CSU cầm quyền lâu đời nhất ở Đức. Các thủ tướng
lâu đời là K. Adenauer, H. Kohl và hiện
nay là A. Merkel (từ 2005). Cựu đảng trưởng và đương kim ngoại trưởng S.
Gabriel đã từng nói, đảng SPD không coi các chính đảng khác ở Đức là kẻ thù mà
chỉ là đối thủ chính trị, nghĩa là cùng tồn tại nhưng cạnh tranh trong chính trị.[6]
Điều đáng chú ý là, hai chính đảng lớn
nhất đối lập nhau SPD và CDU/CSU không muốn thành lập chính quyền liên hiệp của
hai đảng lớn nhất. Vì họ ý thức rằng, một xã hội thiếu đối lập, nhất là đối lập
có trọng lượng, không có lợi chung cho quyền lợi đất nước. Cho nên trong gần 70
năm chỉ có ba lần có chính phủ liên hiệp lớn được miễn cưỡng thành lập (1966-69),
(2005-09) và hiện nay từ 2013.
Trong QHLB hiện nay có 631 dân biểu,
bao gồm các chính đảng CDU/CSU (311), SPD (193), đảng Tả (64) và đảng Xanh
(63).[7]
Hiện nay các chính đảng đang chạy đua tranh cử vào giai đoạn cuối trước cuộc bầu
cử QHLB mới (24.9.17). Các cuộc thăm dò gần đây cho thấy ngoài 4 chính đảng
trên, có thể đảng Tự do sẽ trở lại QHLB và đảng AfD cũng có thể nhẩy vào QHLB lần
đầu. Đây là một đảng cực hữu, có khuynh hướng chống EU và người nhập cư, mới ra
đời từ vài năm, đặc biệt từ khi bà Merkel ban hành chính sách tiếp nhận ồ ạt
người tị nạn từ Hè 2015.
Về mặt nội trị, sự hoạt động song hành
của chính phủ liên bang và các chính phủ tiểu bang cho thấy sự tản quyền đã được
đặt ưu tiên. Ngoài ra Hiến pháp 1949 thiết lập chế độ đại nghị với QHLB là cơ
quan có quyền lực cao nhất, Thủ tướng lãnh đạo chính phủ do QHLB bầu ra và qui
định các chính đảng phải hội đủ 5% tống số phiểu cử tri mới được cử đại diện
vào QH. Cách tổ chức hệ thống công quyền như thế ở Đức cho thấy vừa phân quyền,
tản quyền và đề cao hiệu năng. Việc này chứng tỏ các giới chính trị, chuyên
viên, trí thức và đa số nhân dân Đức không muốn tái diễn nguy cơ chế độ độc tài
cá nhân và đảng trị cực kì nguy hiểm thời Quốc xã của Hitler. Nhưng đồng thời
cũng muốn tránh tình trạng đất nước chia năm xẻ bẩy thời Cộng hòa Weimar
(1918-33).
Điểm nổi bật nhất phải nói tới là sự
trưởng thành của các chính đảng dân chủ ở Đức và các quyền công dân căn bản
không những chỉ được thừa nhận trong Hiến pháp mà còn được thực thi nghiêm túc
trong cuộc sống hàng ngày. Trong đó phải nói tới các quyền tự do dân chủ căn bản
của các công dân, quyền tự do thành lập các tổ chức dân sự, các tổ chức nghề
nghiệp và tự do báo chí. Ngay trong Điều 1 Hiến pháp 23.5.1949 đã qui định „Phẩm giá của con
người không được xâm phạm. Tôn trọng và bảo vệ nó là trách nhiệm của tất cả các
cơ quan công quyền“.[8] Mọi công dân và đoàn thể đều có
quyền viết thư yêu cầu Tòa án Hiến pháp tối cao liên bang (Bundesverfassungsgericht)
phản đối và kiện các quyết định của chính phủ và QHLB, nếu họ cảm thấy nó vi phạm
tới các quyền căn bản ghi trong Hiến pháp. Ngay cả nhóm cực hữu hậu thân của Quốc
xã (NPD) cũng đã hành xử quyền này. Cho tới nay Tòa án Hiến pháp tối cao liên
bang đã ra nhiều bản án nổi tiếng, chứng tỏ sự công minh và độc lập trong vai
trò bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân ngăn cản các quyết định sai lầm
hoặc bất công của các cơ quan công quyền.
Quyền tự do báo chí của Cộng hòa liên
bang Đức cũng trở thành biểu tượng tốt và đã được chứng minh nhiều lần không chỉ
đối với các nhân vật quan trọng trong chính quyền, các cơ quan công quyền mà cả
với chính một số nhà báo. Nổi tiếng nhất là vụ „Die Spiegel-Affäre“ vào cuối
1962. Der Spiegel là tuần báo rất có uy tín và có số độc giả đông. Vì một bài
tường thuật về chính sách quân sự của NATO khi ấy đã bị bộ trưởng Quốc phòng và
đảng trưởng CSU F.J. Strauß buộc tội là
„phản quốc“. Một số kí giả và cả Tổng biên tập Rudolf Augstein đã bị bắt giam.
Quyết định của Strauß đã tạo ra nhiều phản ứng cực mạnh trong nhân dân lẫn
chính giới. Báo chí cấp tiến, nhiều chính đảng trong QH và nhiều nhân vật có uy
tín đã yêu cầu phải trả tự do cho các nhà báo bị bắt và đòi truy tố Strauß. Áp
lực của dư luận đã dẫn tới khủng hoảng chính phủ. Cuối cùng TT Adenauer đã cách
chức Strauß khỏi bộ trưởng Quốc phòng và sau đó tòa án đã trả tự do cho các nhà
báo và Tổng biên tập der Spiegel.[9]
Chuyện thứ hai liên quan tới báo chí bị lợi dụng. Đầu 1983 tuần báo Stern đã
cho phổ biến loạt bài gọi là „Hitler-Tagebücher“ (Nhật kí Hilter)[10]
, nhờ đó số phát hành đã gia tăng vọt, từ 400.000 lên 2,2 triệu và giá bán mỗi
tập Stern từ 0,50 DM vọt lên 3,5 DM. Nhưng ngay sau đó các cơ quan điều tra đã
chứng minh đây là tài liệu giả mạo. Họa sĩ K. Kujau, người giả mạo chữ viết của
Hitler, và nhà báo Heidemann của Stern đã bị xử nhiều năm tù. Ban biên tập tuần
báo Stern đã phải từ chức và tờ báo bị mất
uy tín.
Một thí dụ khác về quyền lực không minh
bạch sẽ bị dư luận kết án nghiêm khắc trong xã hội DCĐN ở Đức bất kể nhân vật
nào: TT Kohl vừa từ trần và sẽ được EU tổ chức tang lễ chung vào 1.7. Ông đã
đóng góp nhiều cho sự lớn mạnh của EU và được coi là người cha tạo dựng nước Đức
thống nhất. Nhưng chính vào những năm cuối của thập niên 90 TT Kohl đã bị dư luận
Đức kết án và ngay đảng CDU của ông cũng phê bình, vì những liên hệ của ông trong
vụ nhận khoản tài chánh lớn (khoảng trên 2 triệu Đức mã) giúp CDU nhưng không
công khai minh bạch. [11]
Nói tới sự thống nhất Đức kì diệu trong
hòa bình những năm 1989-90 không thể không nói tới chính sách „Ostpolitik“ (Hướng
Đông) của cố TT W. Brandt từ đầu thập niên 70. Khi ấy Tây Đức là một cường quốc
kinh tế trong EU và đồng minh quan trọng của Hoa kì trong việc ngăn chặn sự xâm
lược của Liên xô. Nhưng Brandt đã nhận ra, nếu tiếp tục chủ trương thù địch với
Mạc tư khoa thì tình hình an ninh của Tây Đức và Âu châu tiếp tục căng thẳng và
hòa bình bị đe dọa. Vì thế chính phủ của ông đã chủ trương dựa vào Mĩ để điều
đình và mở cửa với Liên xô về các mặt ngoại giao, kinh tế và an ninh. Nhiều hiệp
ước quan trọng đã được Tây Đức kí kết với Mạc tư khoa, Đông Đức và Ba lan, công
nhận biên giới của Âu châu sau Thế chiến 2. Hiệp ước An ninh và Hợp tác Âu châu
được 35 nước Âu châu cùng với Mĩ và Gia
nã đại kí 1975 tại Helsinki (Thủ đô Phần lan) là kết quả đưa tới hòa hình và hợp
tác kinh tế giữa hai bên Đông Tây. Nó mở cửa để chính phủ Đức của TT H.Kohl thương lượng với Chủ tịch nước và Tổng
bí thư Gorbatschow của Liên xô trong các năm cuối thập niên 80. Kết quả là Đức
thống nhất trong tự do, các nước Đông Âu chuyển sang DCĐN và chế độ toàn trị
Liên xô chấm dứt. Lúc đầu Liên minh CDU/CSU đã kịch liệt chống lại chủ trương
Ostpolitik của Brandt, nhưng sau này chính cố TT Kohl cũng đã nhìn nhận sự đóng
góp của SPD đứng đầu là Brandt khi đó, đã giữ phần quan trong cho tiến trình thống
nhất Đức và hòa bình giữa Đông và Tây Âu.[12]
Điều này cho thấy, chế độ DCĐN đã giúp Đức thay đổi
chính quyền trong trật tự và từ đó dẫn tới những thay đổi trong chính sách đối
nội và đối ngoại hợp lí hơn. Trái với lập
luận rất sai lầm của những người cầm đầu chế độ toàn trị CSVN cho rằng, đa đảng
chỉ dẫn tới rối loạn!
Nói tới sự thành công của Đức xuyên qua
chế độ DCĐN và KTTT không thể không nói tới sự tiến lên của EU trên 60 năm vừa
qua. Như phần mở đầu đã khái lược, nhờ sự thông minh và tầm nhìn xa nên nhiều
nhà lãnh đạo Tây Âu, đặc biệt là giữa Pháp và Đức, đã cùng với Hoa kì biết chuyển
thù thành bạn. Các nước DCĐN chính ở Âu châu đã từng bước thấp đến cao, nhỏ đến
lớn khởi đầu từ 6 nước nay lên tới 27 nước với nửa tỉ người; từ liên kết chỉ
trong vài lãnh vực thương mại, rồi từng bước mở rộng hợp tác trong kinh tế, tài
chính, tiền tệ, ngoại giao và quốc phòng. Sau các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài
chánh, Brexit và bất đồng về chính sách tiếp nhận người tị nạn Phi châu, trong Hội
nghị Thượng đỉnh mới nhất của EU vào giữa tháng 6 vừa qua cho thấy đã có những
chuyển biến tích cực sau những thất bại của các đảng cực hữu trong các cuộc bầu
cử ở Pháp và Hòa lan. Tổng thống mới của Pháp E. Macron và Thủ tướng Đức Merkel,
hai đầu tầu của EU, đã đưa ra những đề nghị cải tổ quan trọng về kinh tế, tài
chánh và quốc phòng để đối phó với căng thẳng ở Âu châu và thế giới do một số
những chính quyền độc tài cực hữu gây ra như Putin (Nga), Erdogan (Thổ nhĩ kì)
và chủ trương rất cực đoan và thiển cận của tân Tổng thống Trump.
***
Khi so sánh cuộc sống của nhân dân ở Đức
và VN về mức sống vật chất, an sinh xã hội và các quyền tự do căn bản của con
người thì ai cũng thấy sự khác biệt như ngày với đêm, trắng với đen. Sau 70 năm
xây dựng xã hội DCĐN và KTTT, tuy chưa phải là tuyệt hảo, nhưng đại đa số nhân dân
Đức có đời sống vật chất và phúc lợi rất cao, nhân phẩm và các quyền tự do dân
chủ được tôn trọng và bảo vệ. Các cuộc thay đổi chính quyền từ chính đảng này
sang chính đảng khác diễn ra rất trật tự và ổn định qua các cuộc bầu cử dân chủ
và tự do cho mọi thành phần trong xã hội Đức. Những thay đổi chính sách về kinh
tế, xã hội, ngoại giao và quốc phòng cũng diễn ra ở những mức độ và giai đoạn
khác nhau, nhưng đều có tác dụng đưa nhân dân Đức hạnh phúc hơn, các quyền tự
do căn bản được tôn trọng hơn, ý thức trách nhiệm cao trong khu vực và quốc tế.
Nhờ vậy từ một đống tro tàn, hận thù và chia cắt sau Thế chiến 2, nay Cộng hòa
liên bang Đức đã thống nhất đất nước trong hòa bình, trở thành một cường quốc
kinh tế, khoa học tiến bộ và là một cột trụ trong EU, được cộng đồng quốc tế nể
trọng.
Trong khi đó tại VN cũng trong khoảng
thời gian này, nhưng dưới chế độ độc đảng toàn trị đã tôn thờ bạo lực và gây hận
thù giữa các thành phần dân tộc, xô đẩy đất nước hết cuộc chiến tranh tàn bạo
này sang cuộc chiến tranh tàn khốc khác. Tuy đất nước đã thống nhất trên 42 năm,
nhưng các người khác chính kiến vẫn bị đàn áp tàn bạo, khinh thường nhân dân;
thực hành các chính sách kinh tế cực kì sai lầm với cái đuôi XHCN. Chính chế độ
độc đảng toàn trị đang đẩy VN rơi vào
kinh tế tụt hậu, khoa học lạc hậu, bọn quan đỏ tham nhũng tiền bạc và quyền lực
đang trở thành các trọc phú. Trong khi ấy đa số nhân dân vẫn phải sống trong
nghèo nàn, nhân phẩm bị vùi dập và bị tước đoạt các quyền tự do dân chủ căn bản!
Con đường nào, thể chế chính trị và
kinh tế nào biến trần thế thành thiên đàng hay biến thế gian thành địa ngục?
Câu trả lời đã rất rõ khi nghiêm túc đối
chiếu và so sánh trong mọi lãnh vực giữa Đức và VN trong 70 năm qua. Một bên là
chế độ Dân chủ Đa nguyên và Kinh tế Thị trường, còn bên kia là chế độ độc đảng
toàn trị và Kinh tế Thị trường Định hướng XHCN!
26.6.17
[2] . Công an nhân dân 20.6.17
[3] . như 1
[5] . Diễn văn của Tổng thống Đức J. Gauck
ngày 23.5.13 tại Lễ kỉ niệm "150 năm đảng Xã hội Dân chủ Đức, http://dcpt.org/thoisu/baithoisu2013/dienvan.htm
[6] . Như 5
[7] . Như 1, tr. 101
[8] . Như 4
[12] .Hans-Dietrich Genscher, Erinnerungen,
Siedler Verlag 1995, tr. 207 tiếp; Willy Brand, Erinnerungen, Ulstein 1993, tr.
315 tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét