Viết Lời ai điếu, Lê Phú Khải vén tấm màn
nhung bí hiểm...
Thái Văn
Từ mấy chục năm qua, hồi ký gần như là thể loại độc
quyền của các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam. Các tướng lĩnh cao cấp, nhà văn
hóa, nhà khoa học tên tuổi, đôi khi cũng được chiếu cố dự phần, nhưng phải chịu
sự biên tập chặt chẽ, để cuốn sách, sau khi xuất bản không xảy ra sự cố ngoài
tầm kiểm soát của Ban Tuyên giáo. Tuy vậy, ngay cả hồi ký của của những nhân
vật thuộc hàng “lãnh tụ”, xưa nay, theo thông lệ, cũng vẫn là công trình mang
dấu ấn tập thể. Nó được uốn nắn, gọt giũa theo sự chỉ đạo thống nhất mà tư
tưởng chủ đạo là chỉ nói cái tốt, cái thắng lợi, còn cái xấu và sự thất bại lại
ém nhẹm đi. Vì thế, đọc hàng trăm cuốn hồi ký cách mạng, hết thảy đều rực rỡ
màu hồng. Vạn nhất, khi buộc phải viết về sự thất bại, người ta lập tức đổ lỗi
cho khách quan và nhất là kẻ thù. Loại hồi ký ấy, dù là tác giả tự viết hay
thuê các nhà văn, nhà báo viết, tất cả đều cùng một bố cục, một giọng điệu, sử
dụng triệt để phương pháp thổi phồng sự thật, tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo
của Đảng, sùng bái cá nhân và khinh miệt kẻ thù.
Khác với loại hàng “quốc doanh” trên, Lời ai điếu trước hết là một tác phẩm
văn học nghiêm túc, được viết bởi một nhà báo chuyên nghiệp, không phải đảng
viên cộng sản, chỉ với mục đích cung cấp cho bạn đọc sự thật về những điều mắt
thấy tai nghe sau 38 năm làm báo dưới thể chế độc tài toàn trị.
Không phải là hồi ký chính trị, nhưng các sự kiện
chính trị trong Lời ai điếu luôn xuất hiện với tần suất cao bởi nó gắn liền với
vận mệnh đất nước cùng những biến động xã hội ở cả cấp độ vĩ mô đến cấp độ vi
mô. Nói cách khác, không một ai có thể đứng ngoài chính trị cho dù anh ta là
người thông minh tuyệt đỉnh hay kẻ ngu đần ở nấc thang cuối cùng của xã hội.
Lời ai điếu gồm 10 chương được viết theo trình tự thời
gian, giống như một cuốn tự truyện về cuộc đời tác giả dưới dạng những hồi ức.
Các chương lại được bố cục dài ngắn khác nhau tùy thuộc vào tầm vóc của mỗi sự
kiện. Điều đáng chú ý ở đây là, các sự kiện chủ đạo của mỗi chương lại có xu
hướng rẽ nhánh thành những trường đoạn có cấu trúc như một câu chuyện hoàn
chỉnh với những nhân vật có thực, trong một không gian, thời gian cụ thể theo
phong cách tiểu thuyết hiện đại.
Bố cục tác phẩm, nhìn chung là khá tương thích với quá
trình diễn biến tư tưởng, trạng thái tâm lý của người viết theo trình tự thời
gian, sự chuyển dịch không gian và hoàn cảnh cá nhân được lồng trong bối cảnh
xã hội. Chính vì vậy, ta cũng có thể xem Lời ai điếu là cuốn “biên niên sử” của
dân tộc Việt trong vòng già nửa thế kỷ thông qua cuộc đời của một nhà báo đã
vượt qua nỗi sợ hãi, tìm lại được chính mình sau nừa đời người buộc phải làm
“bồi bút”.
Như chính tác giả từng nói, “dưới sự cai trị của những
người Cộng sản, mọi thứ đều rơi vào tình trạng tù mù bởi hệ thống tuyền thông
chỉ giới hạn trong việc cung cấp thông tin một chiều, trong đó không ít thông
tin dối trá, lừa bịp”. Những thông tin người dân được tiếp cận, phần lớn mới
chỉ phản ánh một nửa sự thật. Phần còn lại bị giấu kín dưới chiêu bài “bí mật
quốc gia”, kể cả những chuyện rất tầm phào như Tổng Bí thư có hai phu nhân, khi
Em Hai ở miền Nam ra thì Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương tìm cách lừa Chị Cả lên
Tam Đảo chữa bệnh để khỏi “đụng hàng”.
Người Phương Tây có câu ngạn ngữ “một nửa cái bánh mỳ
là bánh mỳ, nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật”. Với tư cách một nhà
báo chân chính, Lê Phú Khải muốn bổ sung “một nửa sự thật”, nhằm cung cấp cho
nhân dân một cái nhìn toàn cảnh về quá trình vận hành không bình thường của đất
nước từ khi những người Cộng sản du nhập chủ nghĩa Marx - Lenin và áp đặt nền
chuyên chính vô sản vào Việt Nam. Nói một cách dễ hiểu, cấu trúc của Lời ai
điếu giống như bộ xương cá, trong đó phần chủ đạo là xương sống, trong khi hệ
thống xương sườn phát triển về cả hai bên chính là những đoạn rẽ nhánh mỗi khi
tác giả cần kể chi tiết về một sự kiện hay nhân vật nào đó có liên quan đến
mình.
Cũng có thể hình dung, chủ thể xuyên suốt cuốn sách là
một cái “tôi” chủ quan dẫn dắt hệ thống “cốt truyện” và nhân vật thông qua thời
gian và không gian nhưng lại theo quy luật khách quan. Mỗi câu chuyện đều được
gắn với mảnh đất và con người cụ thể như là những nhân chứng sống, tạo nên bức
tranh toàn cảnh về diện mạo xã hội Việt Nam dưới sự quản trị của những người
Cộng sản cuồng tín.
Dưới ngòi bút Lê Phú Khải, xã hội Việt Nam đương đại
hiện ra như một vở bi hài kịch mà lớp đào kép buộc phải sắm vai diễn trên sân
khấu như những con rối được điều khiển bởi bàn tay của những phù thủy lão luyện
trong nghệ thuật lừa bịp. Ở đó, thậm chí không ít người trong cộng đồng dân tộc
thiếu bản sắc văn hóa ấy, vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm của những vụ thanh
trừng nội bộ, những chiến dịch đấu tố đẫm máu, giết chết hàng trăm ngàn người
vô tội bởi thứ chủ thuyết hoang đường đi ngược lại những giá trị truyền thống tốt
đẹp.
Nhìn một cách tổng quát, tinh thần chủ đạo của Lời ai
điếu là những dòng hồi ức được “vẽ” bằng gam màu xám. Suốt cuộc kháng chiến
chống Pháp cho đến những năm đầu thế kỷ XXI, quá trình phát triển xã hội Việt
Nam toàn là những cuộc thí nghiệm vĩ đại mà kết quả của nó đều thất bại thảm
hại. Đương nhiên chịu hậu quả nặng nề nhất vẫn là nhân dân, thuộc thành phần
đám đông. Vì thế, về một mặt nào đấy, Lời ai điếu còn là bản tổng kết hàng loạt
chính sách thất bại của Đảng CSVN kèm theo những dẫn chứng hết sức thuyết phục.
Dẫn chứng có khi là một nhân vật lịch sử tham gia vào guồng máy cai trị vừa hồi
hưu hay bị thất sủng, cũng có thể là trí thức, văn nghệ sĩ, từng là nạn nhân
trong các chiến dịch đàn áp, tẩy não sắt máu, thỉnh thoảng lại được khởi động
để loại bỏ “thế lực thù địch” mà những người Cộng sản trong cơn mê sảng tưởng
tượng ra.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay phần mở đầu cuốn sách
tác giả đã kể lại vắn tắt câu chuyện của ông nội từng làm nhân viên bưu chính
trong Phủ Toàn quyền. Cụ từng sang hội chợ Marseille năm 1922 phiên dịch cho
vua Khải Định; hay chuyện ông chú ruột Lê Phú Hào làm phiên dịch cho Lê Đức Thọ
trong hòa đàm Paris; rồi chuyện một ông chú ruột khác là Lê Hữu Qua từng là lái
xe kiêm bảo vệ ông Hồ Chí Minh thời kỳ đầu Cách mạng Tháng Tám, bị bọn Tàu
Tưởng đuổi bắn phải bỏ xe chạy... khiến độc giả háo hức, buộc phải đọc tiếp
những phần sau.
Có thể đây chính là nghệ thuật “tiếp thị” của một ký
giả lão thủ trong nghề. Tuy nhiên, Lê Phú Khải không treo đầu dê bán thịt chó
như phần lớn các tập hồi ký quốc doanh. “Hàng hóa” của ông toàn của độc, càng
đọc càng giật mình...
Với vốn sống dồi dào, tư liệu phong phú, bản lĩnh vững
vàng của một “lão trượng” U 70, đã thoát khỏi nỗi ám ảnh của sự sợ hãi, Lê Phú
Khải đưa đến cho người đọc một tác phẩm văn học đích thực, giầu cảm hứng nhân
văn, sôi sục tinh thần công dân về những năm tháng xã hội động loạn, khi mà nhà
cầm quyền muốn biến dân tộc thành đàn cừu, nhất cử nhất động đều phải làm quen
với tập quán xếp hàng, hài lòng với chế độ quản lý hộ khẩu và không được suy
nghĩ những gì trái với sự cho phép của Đảng.
Nghệ thuật viết của Lê Phú Khải khác xa với kỹ thuật
xảo biện của loại hồi ký chính trị ba rọi được bọn bút nô viết thuê, luôn bịa
tạc, tô vẽ, hòng biến “chủ chi” của họ thành thánh thần thuộc đẳng cấp lãnh tụ
linh thiêng bất khả xâm phạm. Trái lại, trong cuốn sách của mình, Lê Phú Khải,
nhân vật trung tâm, đóng vai trò chứng nhân – người kể chuyện – bình đẳng với
các đối tượng liên quan, cho dù người ấy là đầu lĩnh tối cao tự phong, hay chỉ
là một anh “Hai Lúa” nào đó làm nghề đơm cá mùa nước nổi vùng Sông Hậu.
Phong cách viết của Lê Phú Khải đến Lời ai điếu đã có
bước chuyển ngoạn mục từ văn báo chí minh họa rườm rà đầy rẫy những lời hoa mỹ,
những uyển ngữ sáo rỗng sang hình thức phản biện, phản tỉnh. Ông sử dụng báo
chí như là “quyền lực thứ tư” phanh phui sự lạm dụng quyền lực của chính thể
độc tài toàn trị, xưa nay chỉ coi báo chí là công cụ tuyên truyền, lừa bịp,
thao túng dư luận.
Đương nhiên, chất lượng một tác phẩm văn chương phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như bố cục mạch lạc, hợp lý, lời văn trau chuốt hay cách
kể sinh động. Có điều, với thể loại ký, nhất là hồi ký, điều kiện cốt tử làm
nên sự thành công phải là tư liệu. Với người viết hồi ký, tư liệu là nguồn tài
nguyên quan trọng làm nên giá trị đích thực của cuốn sách.
Là người trong cuộc, từng tận mắt chứng kiến sự phát
sinh, phát triển và suy thoái của một đảng chính trị cầm quyền bằng cách tước
đoạt những quyền cơ bản của người dân, Lê Phú Khải viết về những sự kiện lịch
sử trọng đại, ông phân tích và chỉ ra những chính sách sai lầm có hệ thống của
những nhà lãnh đạo có vốn học vấn và tầm văn hóa thấp nhưng lại sở hữu cái đầu
kiêu ngạo đầy hoang tưởng. Chỉ cần chừng ấy cũng đủ khẳng định bản lĩnh của
người trí thức có hùng tâm tráng chí, luôn trăn trở với số phận đất nước. Tuy
nhiên, Lê Phú Khải không dừng lại ở công đoạn kể lại sự việc một cách khách
quan, trung thực như tấm gương vô hồn phản chiếu hiện thực xã hội, mà ông còn
bộc lộ ý thức trách nhiệm của mình qua thao tác bình luận sau mỗi sự kiện đã
trình bày. Lời bình của Lê Phú Khải luôn đánh giá đúng bản chất của hiện tượng,
đồng thời lại chỉ ra được nguyên nhân nào làm phát sinh những hiện tượng ấy.
Cũng hoàn toàn khác với mánh khỏe tung hỏa mù, đánh
tráo khái niệm hoặc bóp méo sự thật lịch sử của không ít cuốn hồi ký cách mạng
giả cầy, Lời ai điếu luôn cung cấp những thông tin có chất lượng cao về mặt
khoa học cũng như lịch sử, mục đích làm người đọc nhận thức chính xác diện mạo
xã hội Việt Nam qua các thời kỳ thường bị nhà nước Cộng sản thông qua Ban Tuyên
giáo các cấp bưng bít. Thông tin của những cuốn gọi là hồi ký ấy, nhiều nhất
cũng chỉ cung cấp được một phần sự thật. Còn thông tin nhà nước qua hệ thống
800 tờ báo, tạp chí, gần 100 đài phát thanh truyền hình, luôn được chế biến, vo
tròn bóp méo cho phù hợp với đường lối cai trị bằng chính sách ngu dân của
Đảng. Sự bưng bít thông tin và thói quen dối trá đã biến dân tộc Việt thành một
cộng đồng bạc nhược, triệt tiêu năng lực sáng tạo mà hậu quả là, đất nước tụt
hậu thê thảm, tham nhũng trở thành quốc nạn, lãnh thổ bị ngoại bang xâm lấn, nợ
công vượt quá giới hạn an toàn, còn môi trường ô nhiễm nặng nề đe dọa nghiêm
trọng không gian sinh tồn.
Chuỗi bình luận của Lê Phú Khải có lý có tình, được
quy chiếu vào những trường hợp cụ thể, giàu sức thuyết phục, rất thực tế chứ
không viển vông, hoang tưởng như các nhà lãnh đạo vung tay chém gió phun ra
trước đám đông mỗi khi nổi hứng để ghi điểm với các đồng chí của mình.
Cũng trong hồi ký của mình, Lê Phú Khải không ít lần
nhận xét về những nhà khoa học được đào tạo bởi nền giáo dục Pháp, chịu ảnh
hưởng của văn hóa Phương Tây, được chính quyền Cộng sản sử dụng ở thời kỳ đầu
sau Cách mạng Tháng Tám. Đó là những trí thức văn nghệ sĩ có tư tưởng cấp tiến,
trình độ chuyên môn cao, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ ý thức Khổng Mạnh bảo
thủ, lạc hậu, sẵn sàng cống hiến sức lực để canh tân đất nước. Trái lại, loại
cán bộ vô học xuất thân từ thành phần bần cố nông tham gia cách mạng, trở thành
lực lượng nòng cốt lãnh đạo thì hống hách, kiêu ngạo và dối trá. Tầng lớp chính
khách xôi thịt, vốn là sản phẩm của cách mạng mang phẩm chất lưu manh này, theo
tác giả chính là thế lực hùng mạnh cản trở tiến trình phát triển bằng thứ tư
duy giáo điều, chủ trương đường lối duy ý chí, đưa đất nước vào sự khủng hoảng trầm
trọng, xã hội phân hóa sâu sắc, văn hóa, đạo đức suy thoái, không biết đến bao
giờ tìm được lối ra. Ta hãy hình dung, một tay nông dân thuộc thành phần “lý
toét xã xệ” như Minh Tiến, nơi gia đình tác giả tản cư hồi chống Pháp, chỉ sau
một thời gian leo lên đến thứ trưởng Bộ Công an, mà đồng bào không đói nghèo,
đất nước thành rồng thành hổ mới là chuyện lạ: “Hồi đầu Cách mạng Tháng Tám,
ông nội tôi cũng có một khẩu súng lục, cũng do ông chú tôi “cấp” cho, nhưng sau
đó bị ông chủ tịch xã mượn, chắc là để đeo cho oai. Chủ tịch xã là ông Minh
Tiến, sau làm đến chức thứ trưởng Bộ Công an. Ông ta là một thư lại láu cá. Tôi
sẽ kể về sau. Cái giấy “mượn” súng có đóng dấu hẳn hoi, đến bây giờ chú em họ
tôi vẫn giữ”.
Nhà nước Cộng sản vận hành không theo quy luật phổ
quát của nhân loại tiến bộ mà họ chơi theo cách riêng dựa trên cơ sở học thuyết
đấu tranh giai cấp. Theo K. Marx, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã
hội, mà giai cấp công nông lại là nòng cốt của nhà nước dân chủ kiểu mới này,
đương nhiên phải được ưu tiên trong quá trình tuyển chọn vào guồng máy quản lý
các cấp từ trung ương đến địa phương. Chủ nghĩa lý lịch hình thành như một điều
kiện tất yếu. Con cháu các gia đình thuộc thành phần “lớp trên” bị loại khỏi
các cuộc tuyển sinh như một lẽ đương nhiên. Trường đại học chỉ dành riêng cho
con em bần cố nông. Quy trình đào tạo sặc mùi giai cấp này kéo dài gần bốn mươi
năm làm cho chất lượng đại học Việt Nam xuống cấp một cách thảm hại. Có vẻ như
thành phần bần cố nông vẫn luôn mặc cảm với trình độ thấp kém, giờ có cơ hội,
họ quyết tâm vùng lên, trả mối hận truyền kiếp với những kẻ hơn mình về tri
thức. Lê Phú Khải cũng là nạn nhân của thứ chủ nghĩa phân biệt quái gở, hai lần
thi trượt đại học chỉ vì sự quan liêu của gã công an khu vực. Ngay phần đầu chương
ba “Hai lần thi trượt nhưng số phận vẫn mỉm cười với tôi”, ông kể lại: “... một
chuyện có thật về chế độ thi cử, hay nói cách khác là cả nền giáo dục ấu trĩ,
xem nặng tính giai cấp của chế độ Cộng sản ở miền Bắc. Di hại của nó không biết
bao giờ mới hết”. Việc tác giả hai lần thi trượt, sau này may có ông Bảy Trân
can thiệp, sự việc mới lộ ra. Bài của ông không được chấm vì gia đình thuộc
thành phần tư sản: “Hồi ấy, chế độ phê chuẩn, chứng nhận lý lịch của thí sinh
nộp đơn thi vào đại học do xã phê, không cho đương sự biết, rồi niêm phong gửi
qua đường bưu điện đến phòng tổ chức của trường đại học mà thí sinh dự thi. Nhà
trường nhận được lý lịch như vậy cũng không chấm bài thi, chỉ căn cứ vào thành
phần gia đình tốt xấu của thí sinh mà xét cho đỗ hoặc trượt như tôi đã kể ở
trên. Chế độ tuyển sinh vào đại học như thế kéo dài từ sau hòa bình năm 1954
không biết đến năm nào... Trường hợp của tôi là do may mắn đưa tôi vào gặp thầy
hiệu phó mùa thi tuyển năm 1963 trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi mới biết chế
độ tuyển sinh rùng rợn và rừng rú này”. Cùng với lời kể khá chi tiết, Lê Phú
Khải nhận xét: “Chủ nghĩa Marx - Lenin, với quan điểm giai cấp, đấu tranh trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mới sinh ra cách tuyển sinh vào các trường đại
học man rợ như thế. Nó lạc hậu hơn tất cả các hình thái xã hội từ trước đó. Kể
cả thời phong kiến thì nhà nước cũng kén người tài giỏi, thi đạt bằng cấp cao
mới được tuyển dụng vào bộ máy cai trị. Còn thời Cộng sản chỉ lựa chọn theo
thành phần giai cấp. Chính vì thế mà dưới chế độ Cộng sản, tất cả sinh viên đại
học sau khi tốt nghiệp được phân bổ về các cơ quan đảng, nhà nước ta, đa phần
là những kẻ dốt nát. Bởi lẽ, cứ là thành phần bần cố nông, dân nghèo thành thị
thì mới được vào đại học”.
Nói đến chế độ thi cử, Lê Phú Khải lại liên hệ đến gia
đình mình để chứng minh tính ưu việt của nền giáo dục thời thuộc Pháp: “Tôi nhớ
thời Pháp thuộc, bố tôi thi diplôme bốn năm liền không đỗ. Không đỗ là không
đỗ, chẳng có chuyện chạy chọt
xét thành phần gì cả. Ông nội tôi có thừa tiền cũng không thể chạy cho bố tôi
được”. Từ sự kiện trên tác giả phân tích: “Chế độ thi cử xét thành phần giai
cấp để tuyển chọn đã đào tạo ra đầy rẫy những công chức có bằng cấp nhưng dốt
nát để quản lý xã hội ở các lĩnh vực. Sau này vào đại học tôi mới biết, sinh
viên con cái các gia đình bần cố, thành phần nòng cốt ở nông thôn, học lực rất
yếu, nhưng mỗi năm vẫn lên một lớp, vẫn tốt nghiệp ra trường trở thành thầy cô
giáo dạy môn văn cấp 3. Có thầy cả đời không đọc hết một cuốn sách... Vậy mà
các vị trí thức bần cố nông này lại rất vênh váo, rất tự hào và rất thỏa mãn
với địa vị của mình. Thời bao cấp thì thi thành phần để lấy bằng cấp. Thời kinh
tế thị trường định hướng XHCN ngày nay thì mua bán, đút lót để lấy bằng là
chính, chứ không cần kiến thức. Vì thế cả bộ máy xã hội hoàn thiện sự dốt nát.
Bộ máy cai trị đó đầy ghét bẩn nên nó không thể vận hành bình thường được. Kẻ
dốt nát, khi có quyền, lại xuất thân từ thành phần nghèo khổ nên chỉ lo vơ
vét”.
Theo dòng thời gian, sau khi tốt nghiệp, được phân cộng
về nông thôn dạy học, chỉ với 9 năm đứng trên bục giảng, Lê Phú Khải đã nhận ra
tình trạng bần cùng của người nông dân Đồng Bằng Bắc Bộ qua chính sách hợp tác
hóa phiêu lưu của các nhà lãnh đạo cuồng tín: “...sống ngay trong nhà dân...,
tôi có dịp gần gũi để tìm hiểu người nông dân Đồng Bằng Bắc Bộ. Tôi có thể rút
ra những nhận xét, những dẫn chứng, những kết luận mà các nhà xã hội học... ở
Hà Nội không bao giờ có được chỉ bằng những chuyến đi thực tế. Thứ nhất, với
chính sách hợp tác hóa, ruộng đất bị đưa 95% vào làm ăn tập thể cha chung không
ai khóc, người nông dân Đồng Bằng Bắc Bộ bị bần cùng hóa và nghèo khổ đến cùng
cực”. Nhưng đấy mới chỉ là nhân họa. Một khi nhân họa song trùng với thiên tai
thì tình cảnh còn khốn nạn hơn nhiều. Và đây là thảm cảnh đàn trâu của hợp tác
xã vùng Cẩm Giàng vỡ đê Văn Thai trong trận lụt năm 1971: “Ấn tượng sâu đậm
nhất với tất cả chúng tôi là tiếng kêu tuyệt vọng của đàn trâu trong huyện.
Chúng cứ bơi, cứ bơi ngày này qua ngày khác đến khi kiệt sức thì chết nổi lên. Cả
một vùng đồng bằng rộng lớn như Hải Dương lấy đâu ra một gò đất cao cho trâu
trú chân. Đàn trâu cứ bơi, vừa bơi vừa kêu. Trong đêm khuya thanh vắng, tiếng
kêu tuyệt vọng của bầy trâu mới ai oán làm sao. Ban đầu còn nghe tiếng kêu, sau
thưa dần rồi im hẳn”.
Nghĩ về nền giáo dục Việt Nam, sau khi cung cấp cho
bạn đọc những chuyện bi hài cười ra nước mắt, Lê Phú Khải chỉ ra căn bệnh trầm
kha đã ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng của các nhà quản lý sính thành tích: “Bệnh
hình thức, hay nói cách khác, gọi đúng tên của nó là giả dối đã ngự trị trong
lao động dạy học. Điều đáng nói là, chính những người lãnh đạo giáo dục ở các
cấp, đã vì dốt nát và giả dối chấp nhận chủ nghĩa hình thức. Đối với môn văn
thì lại càng nguy hiểm. Học sinh ngày càng chán học văn vì ngoại việc môn này
bị chính trị hóa, còn một nguyên nhân rất quan trọng là sự lười biếng được
khuyến khích ở thầy dạy văn”.
Việc học sinh thờ ơ với môn văn còn có nguyên nhân ở
thái độ của Đảng đối với tầng lớp văn nghệ sĩ có thực tài, là tác giả của những
tác phẩm văn học nổi tiếng, bị gạt ra khỏi sách giáo khoa của Bộ Giáo dục, hay
nếu được “chiếu cố” thì phải chịu sự cắt xén cho vừa với “khẩu vị” của hệ thống
“kiểm dịch”. Thơ Trần Đăng Khoa là trường hợp điển hình bị các nhà xuất bản sửa
chữa trở thành tầm thường, dung tục, được Lê Phú Khải nhắc đến không chỉ một
lần trong Lời ai điếu.
Để được đọc Trường ca giông bão, Lê
Phú Khải phải về tận Nam Sách, Hải Dương tìm gặp Trần Đăng Khoa. Ông đọc bản
thảo ngay trên bờ ruộng nơi thần đồng làng Điền Trì đang úp nơm cá: “Tôi ngồi
xuống vệ cỏ đọc một mạch cho đến hết. Nó chẳng kém gì Iliad, Odysseus của
Homer. Hơn 40 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ mấy câu cuối cùng của bản trường ca đó: Ta nhất định thắng/ Vì đầu ta có nhiều lẽ
phải/ Tay ta lấm láp phù sa. Khi về Hà Nội, gặp nhà báo Quang Đạm, Lê Phú
Khải kể lại: “Tôi báo cáo với ông Quang Đạm về bản Trường ca giông bão,
ông trầm lặng nói: Thiên tài! Thiên tài. Rồi ông chậm rãi nói tiếp, nhưng đảng
ta tiết kiệm lắm! Tiết kiệm lắm! Tôi hiểu ý ông muốn nói là không có chuyện
khen ai, nhất là một cậu bé như Trần Đăng Khoa... Sau đó không lâu, bài thơ
được in trên các báo nhưng tên bài thơ đã được biên tập rất ngô nghê và vớ vẩn
là Trường ca đánh Thần Hạn”.
Cũng như thông lệ, sau khi cung cấp cho bạn đọc “một
nửa sự thật còn thiếu”, Lê Phú Khải lại bình luận, lời bình của ông sắc sảo và
chính xác không chê vào đâu được: “Cách biên tập, sửa chữa để các tác phẩm văn
học thời đó trước khi ra mắt bạn đọc của các tòa soạn báo là không để ai qua
mặt được các cây đa cây đề như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu... Tố Hữu khi
còn nhỏ đã viết trường ca đâu... mà một cậu bé con như Trần Đăng Khoa lại dám
viết Trường ca giông bão? Nó chỉ có thể mang cái tên
như một bài vè nôm na..., một kiểu kêu gọi người ta đi tát nước chống hạn mà
thôi. Tôi nói điều này vì đã nhiều lần từng chứng kiển các kiểu biên tập vô
liêm sỉ ấy của báo chí ngay từ những năm 60, 70 của thế kỷ trước”.
Cũng vẫn đề tài Trần Đăng Khoa, Lê Phú Khải còn vạch
rõ, người ta cố tình chữa đi những câu chữ hay nhất trong bài Hạt gạo làng ta để “dìm” tác giả xuống:
“ Bài thơ Hạt gạo làng ta nổi tiếng của Khoa được ca ngợi, được Xuân Diệu hiệu
đính, Trần Khiết Bình phổ nhạc vào năm 1971, đã được biên tập hạ thấp nó xuống.
Phải nói là cố tình hạ thấp, cho dù người ta biết thừa, để nguyên văn thì tác
giả lớn hơn nhiều. Hạ thấp nó để đúng với lập trường quan điểm của Đảng về văn
nghệ XHCN không có bi kịch, không có nỗi buồn, không có cái đau. Khi bài Hạt gạo làng ta đăng báo nó như sau:
Hạt gạo làng
ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh
Thầy
...
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hôm
nay...
Nhưng trước đó, tôi đọc bài này trong bản thảo của
Khoa như sau:
Hạt gạo làng
ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh
Thầy
...
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng
cay...
Chữ đắng cay đã được biên tập thành hôm nay, vậy là
giết chết tác giả rồi. Từ một nghệ sĩ đích thực phát ngôn của tâm hồn nhân dân,
Khoa trở thành kẻ minh họa tầm thường, mộ tay bồi bút chỉ biết véo von ca
ngợi”.
Thế nhưng, trên đây mới chỉ là đoạn “mào đầu” của một
quá trình. Chỉ sau khi rời bục giảng, về Đài Tiếng nói Việt Nam, Lê Phú Khải
mới thực sự trải nghiệm nỗi gian truân của của kiếp “bút nô”. Nói vậy, nhưng
nghề làm báo cũng có cái lợi là được đi nhiều, tiếp xúc với đủ hạng người, đủ
thành phần xã hội trong khi tác nghiệp. Mặt khác, cũng qua nhiều kênh tiếp xúc,
nhà báo còn được cung cấp những nguồn thông tin phi chính thống luôn được coi
là “bí mật quốc gia” mà nhà cầm quyền không bao giờ muốn người dân được biết.
Ông may mắn sở hữu một kho tư liệu vô cùng phong phú, đồng thời cũng tạo dựng
được các mối quan hệ rộng rãi, đáng tin cậy, để sau này, viết về họ vì những kỷ
niệm tốt đẹp giữa người với người trong một xã hội mà sự dối trá, lừa lọc được
tôn vinh như một giá trị văn hóa.
Cũng có người nhận xét, Lời ai điếu là cuốn hồi ký của những phác thảo chân dung chính
khách cộm cán trên chính trường từ khi Chủ nghĩa Cộng sản thắng thế trên toàn
lãnh thổ Việt Nam. Khi giành được thắng lợi, những người Cộng sản cai trị đất
nước theo cách riêng của mình. Thành phần lãnh đạo được chọn lọc rất kỹ qua sự
sàng lọc khắt khe của Ban Tổ chức Trung ương mà thành phần giai cấp là tiêu chí
quan trọng nhất. Cho nền, hầu hết những nhà lãnh đạo đều là những kẻ vô học và
cơ hội, thậm chí có
nguồn gốc lưu manh trong các băng đảng tội pham, bị tù tội, được các đảng viên
Cộng sản “giác ngộ”. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lộng quyền,
tham nhũng, tha hóa nhân cách. Tuy nhiên, với người Cộng sản, lừa bịp, dối trá
lại là “nghệ thuật” lãnh đạo. Họ thường dùng tấm màn đỏ che giấu sự nhếch nhác,
hủ bại nhằm giữ thể diện trước nhân dân và cộng đồng thế giới. Lê Phú Khải làm
ngược lại. Ông tìm mọi cách tháo gỡ tấm màn lòe loẹt ấy, phơi bày trước bàn dân
thiên hạ mặt thật của những kẻ đạo đức giả, vừa ngu dốt vừa kiêu ngạo, lúc nào
cũng coi mình là trung tâm vũ trụ.
Chân dung đầu tiên mà tác giả khắc họa là Trần Quốc
Hoàn. Ngày nay, một số người lầm lẫn vẫn coi Trần Quốc Hoàn là “nhà cách mạng”,
nhưng bộ mặt thật của ngài Ủy
viên Bộ Chính trị, đứng đầu ngành công an suốt 28 năm liền thì không
phải ai cũng biết nếu không có tướng Lê Hữu Qua nhiều lần kể cho cháu mình nghe
về chuyện “thâm cung bí sử”. Tác giả viết: “Gộp những gì tướng Qua nhắc đến thì
đây là một ông quan liêu nặng, dốt nát nhưng hay khoe mẽ, ích kỷ và dối trá,
thích cấp dưới tâng bốc mình, ghét người trung thực, đặc biệt là trí thức. Ông
đã loại bỏ trí thức ra khỏi guồng máy công an. Vợ ông là một người tham lam vô
độ, cái gì vơ được là vơ... Chưa bao giờ tôi thấy tướng Qua gọi tên hay chức vụ
bộ trưởng đối với Trần Quốc Hoàn. Ông gọi vị bộ trưởng này bằng tên H lưu
manh”. Ở một đoạn khác, Lê Phú Khải nhắc lại lời tướng Qua: “Tên H lưu manh này
chỉ biết hắn thôi. Sau ngày giải phóng Thủ đô, hắn chiếm ngay ngôi biệt thự
này. Tất cả cán bộ cao cấp khác, hắn bắt ở trong cơ quan với lý do bảo vệ cán
bộ”. Trong khi ấy, tướng Lê Hữu Qua, người hùng của chế độ, từng lại xe đưa cụ
Hồ thoát khỏi sự truy đuổi của quân Tàu Tưởng, được cử đi bảo vệ cho Phạm Văn
Đồng ở Hội nghị Genève năm 1954, chỉ bởi trực tính mà bị cho về hưu sớm. Tác
giả kể về ông chú mình: “Cả một đời ngang dọc, đánh đông dẹp bắc chiến tích đầy
mình mà đến cuối đời chú tôi vẫn phải ở trong căn nhà “như cái chuồng chó” ấy
thật là bất công. Bây giờ, mỗi khi vô một căn nhà, chủ nhân chỉ là viên sỹ quan
cấp tá thôi nhưng nhà họ nguy nga như một lâu đài. Tôi mới ngẫm ra rằng, như một
nhà hiền triết đã nói: Nghĩ ra một chủ nghĩa bao giờ cũng là các bậc thiên tài.
Thực hiện cái chủ nghĩa đó bao giờ cũng là những người cuồng tín và hưởng thành
quả của chủ nghĩa đó thì bao giờ cũng là bọn lưu manh”.
Tướng Qua còn nói về thói ích kỷ, sự dối trá và nhất
là sợ chết của Trần Quốc Hoàn. Dưới gầm bàn làm việc, ông ta cho xây căn hầm:
“Chỉ cần bấm nút một cái là cả bàn giấy của H thụt xuống hầm sâu. Căn hầm có
thể tránh được bom nguyên tử. Bên phố Yết Kiêu gần đấy, dưới đất là cả một căn
hầm rộng mênh mông. Tên H rất sợ chết, chỉ lo bảo toàn tính mạng cho riêng
hắn”.
Bộ trưởng như thế, đương nhiên các thứ trưởng và đám
thuộc hạ phải được chọn theo ê kíp. Cục trưởng Hoàng Mai và Lê Quốc Thân chính
là sản phẩm của vị bộ trưởng có thời kỳ cầm cờ đám ma và hành nghề lưu manh
trên đường phố Hà Nội. Vẫn theo lời kể tướng Qua, phe cánh của Cảnh Con (biệt
danh của Trần Quốc Hoàn) thường xuyên gây áp lực đến mức hàng loạt cán bộ cao
cấp bị đẩy khỏi ngành: “Ở ngành an ninh Việt Nam, sau khi Lê Giản chuyển sang
ngành Tư pháp - Tòa án, lần lượt các vị “lão tướng trung thần” như Nguyễn Tạo,
Lê Tuấn Thức đều ra đi. Ông Nguyễn Tạo sang làm Tổng cục trưởng Tổng cục lâm
nghiệp, Lê Tuấn Thức sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng cục Lâm nghiệp... vì
không thể ở lại ngành dưới triều đại của Trần Quốc Hoàn”.
Trần Quốc Hoàn là nhân vật nổi tiếng với những thành
tích bất hảo ngay từ thời kỳ đầu lãnh đạo ngành công an, là nhân vật chính
trong kế hoạch thủ tiêu người tình của ông Hồ Chí Minh, nhưng nhà cầm quyền
Cộng sản Việt Nam không hiểu vì lý do gì lại im lặng. Về vụ thảm án này, Lê Phú
Khải viết: “Được biết về vụ án cô Nông Thị Xuân năm 1957. Trước đó Trần Quốc
Hoàn đã hiếp dâm cô Nông Thị Xuân ở số nhà 66 phố Hàng Bông Nhuộm rồi lập mưu
giết hại cô như thế nào? Trong cuốn Đêm giữa ban ngày nhà văn Vũ Thư Hiên cũng
viết trên giấy trắng mực đen vụ án kinh tởm ấy. Vũ Thư Hiên còn nói rõ trong
Đêm giữa ban ngày là, cán bộ từ cấp vụ trở lên ở Bộ Công An đều biết vụ án này.
Vì thế, tướng Qua mới luôn gọi Trần Quốc Hoàn là “thằng H lưu manh” khi nói
chuyện với tôi. Còn nhà văn XĐ quê ở Nghệ An thì nói với tôi rằng, nếu giết hết
được cả làng tôi thì thằng Hoàn nó cũng giết, vì cả làng đều biết nó là thằng
ăn cắp ở chợ làng trước kia!”.
Từ những câu chuyện mang bóng dáng “một nửa sự thật”
không ghi trong chính sử ông trùm công an Cộng sản, tác giả liên hệ đến những
phát ngôn ấn tượng của nhà văn Dương Thu Hương: “Cần có cách mạng để quét đi
những rác rưởi, và cần có tự do để quét đi những rác rưởi mà một cuộc cách mạng
đã sinh ra! Chỉ tiếc là, rác rưởi mà một cuộc cách mạng vô sản đã sinh ra lại
nhiều hơn cả rác rưởi mà nó định quét đi, vì thế mà tướng Trần Độ đã viết trong
Nhật ký rồng rắn của mình rằng: Tôi đi làm cách mạng để xóa đi
một xã hội xấu xa, nhưng xã hội hiện nay lại xấu bằng và xấu hơn cái xã hội mà
chúng tôi đã xóa đi!”.
Một nhân vật cao cấp khác được tướng Qua nhắc đến là
Phạm Văn Đồng, người có thâm niên 32 năm làm Thủ tướng Chính phủ “nhưng không
làm gì” như bài vè dân gian thời ấy giễu nhại. Nghe Lê Phú Khải kể lại những
chi tiết dưới đây, khiến ai cũng phải giật mình, bởi một chính khách vô tích sự
như vậy đứng đầu nội các, mà guồng máy xã hội vẫn hoạt động bình thường thật là
sự lạ: “Dưới mắt tướng Qua thì Phạm Văn Đồng là con người chủ quan, bốc đồng và
rất vô tích sự. Ông kể: vừa mới giải phóng thủ đô, tôi phải bảo vệ cuộc họp
quan trọng của đại diện Cộng Hòa Pháp với chính phủ ta. Tôi phải đích thân lái
xe đến chỗ Sainteny để chở hắn sang họp với Phạm Văn Đồng... Cuộc họp kết thúc,
Sainteny chưa bước ra khỏi phòng họp thì đã thấy tiếng cười lớn Ha! Ha! Ha! của
Phạm Văn Đồng rồi tất cả cười theo. Thấy thế Sainteny quay ngoắt lại, có vẻ rất
ngạc nhiên và khó chịu. Sau khi đưa Sainteny về rồi, tôi quay lại hỏi ông Lê
Thanh Nghị... ông Nghị cười nói: Sainteny sau cùng có đề nghị ta, nếu chính phủ
Việt Nam có cần giúp đỡ, bồi hoàn chiến tranh của chính phủ Pháp thì xin các
ông cứ đề đạt, tôi sẽ là người tích cực trong công việc này... Nghe Sainteny
nói, anh Đồng không trả lời, khi y quay ra thì anh Đồng nói: Mới đánh cho thua
vãi cứt mà đã lên mặt! Rồi anh ấy cười lớn, mọi người cười theo!”. Kể xong câu
chuyện trên, tướng Qua hạ một câu: “Phạm Văn Đồng là thế đó, chỉ làm hại đất
nước”.
Tuy nhiên những chuyện trên mới chỉ là một phần sự
thật. Còn một sự thật động trời nữa là, quốc dân đồng bào không thể ngờ, vị Thủ
tướng “đáng kính” của mình là tay nghiện thuốc phiện và chơi gái có hạng. Ở các
nước tư bản “giãy chết”, các chính khách vướng vào vụ scandal động trời như
vậy, cầm chắc là phải hầu tòa hay chí ít ra cũng phải từ chức về “đuổi gà cho
vợ”, nhưng ở ta, đây cũng là “bí mật quốc gia”, luôn được giấu kín như mèo
giấu... của! Chuyện này cũng do tướng Qua kể, tác giả ghi lại: “Lần này thì
chính ông ta gọi tôi lên để trình bày về cái vụ thế giới nó chỉ trích ta về
nhân quyền trong vụ bắt tù nhân là tướng lĩnh sỹ quan Sài Gòn đi cải tạo vô kỳ
hạn sau 1975. Với tư cách Cục trưởng Cục Trại giam, tôi phải báo cáo Thủ tướng
Chính phủ để còn biết đường mà trả lời các cuộc phỏng vấn của báo chí Phương
Tây. Tôi chuẩn bị khá kỹ tài liệu để báo cáo. Gặp tôi, ông ta không thèm hỏi
han một câu nào, chỉ ra hiệu, anh nói đi! Tôi vừa báo cáo được vài câu thì đã
thấy ông ta ngủ gật. Tôi phải vờ đặt cái tay xuống bàn thật mạnh để ông ta tỉnh
dậy. Tôi lại báo cáo, ông ta lại ngủ gật. Lúc tỉnh dậy, ông nói, anh báo cáo
lại đi tôi nghe chưa rõ. Tôi đứng dậy và nói thẳng vào mặt ông ta, anh có nghe
đâu mà rõ... sau đó tôi quay gót về luôn. Ông ta cũng không nói gì cả. Chắc là
để ngủ tiếp! Sau này tôi được nghe nhà báo TĐ ở báo Nhân Dân kể, Phạm Văn Đồng
chuyên hút thuốc phiện và chơi đĩ do Lê Đức Thọ cung cấp, vì thế hai cái môi
thâm sì. Và Lê Đức Thọ bảo sao thì phải nghe vậy, không thì cắt nguồn thuốc
phiện và gái! Tôi tin lời anh TĐ vì suy ra, người hút thuốc phiện hay ngủ gật,
và điều tướng Qua nói là hoàn toàn đúng về cái sự ngủ gật của ông Thủ tướng lâu
năm này. Chả có thế mà đã thành bài vè trong dân gian:
Hoan hô ông
Phạm Văn Đồng
Tuy là Thủ
tướng nhưng không làm gì!”
Viết về chân dung Phạm Văn Đồng, Lê Phú Khải có nhắc
đến chuyện, trong một cuộc hội thảo khoa học năm 1978 về kế hoạch khai hoang 50
vạn héc ta, một đại biểu phụ nữ Nam Bộ đã dũng cảm phản biện rất dữ dội chiến
dịch phiêu lưu này, phớt lờ ba lần rung chuông của Phạm Văn Đồng khiến ông ta
mất mặt. Sau cái gọi là “giải phóng” năm 1975, Phạm Văn Đồng đi đâu cũng tiền
hô hậu ủng đăng đàn chém gió bên cạnh bọn “trí thức công nông” xu nịnh bốc ông
ta lên tận mây xanh.
Nhân một lần đi theo chuyến máy bay chở cá giống vào
Nam cùng mấy chuyên viên kỹ thuật của Bộ Thủy sản, Lê Phú Khải suy ngẫm về nền
công nghiệp nước nhà: “Cái máy bay như thế mà đã vứt vào nghĩa địa vì nó được
bay hết giờ quy định của hãng chế tạo ra nó. Phương Tây là như thế. Tôi nghĩ,
100 năm nữa chưa chắc nước ta đã làm nổi một chiếc máy bay từ A tới Z như cái
DC tôi vừa đi. Tôi chưa thấy ai bốc phét như ông Phạm Văn Đồng 'đuổi kịp và
vượt phương Tây trong vòng mươi, mười lăm, hai mươi năm nữa!'. Một đất nước
được lãnh đạo bởi những con người hoang tưởng và lố bịch như thế thì đất nước
sẽ đi về đâu? Nhân dân sẽ sống thế nào? Còn đám trí thức kia thì chỉ ngậm miệng
ăn tiền mà thôi”.
Nếu Phạm Văn Đồng chỉ là viên thư lại, vô tích sự, thì
Lê Duẩn đích thị là vị hoàng đế điều hành đất nước với sự trợ giúp đắc lực của
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ. Qua ngòi bút phóng khoáng của Lê Phú
Khải, Lê Duẩn xuất hiện như một nhà độc tài, vô học, cuồng tín và cực kỳ hoang
tưởng. Với hàng loạt chính sách phiêu lưu, duy ý chí, từ sau năm 1975, ông ta
đã đưa đất nước vào những đợt khủng hoảng triền miên, kinh tế suy thoái, nạn
đói hoành hành khiến hàng triệu người phải bỏ đất nước ra đi, tạo nên hiện
tượng thuyền nhân (boat people) như một vết nhơ hằn vào lịch sử. Cho dù Lời ai điếu chỉ là một vài nét chấm phá nhưng chân dung tác
giả “Quyền làm chủ tập thể” vẫn sừng sững “thi gan cùng tuế nguyệt” chẳng khác
gì một “tượng đài nghìn tỷ”, biểu tượng cho sự hổ nhục trong tâm thức dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay ở “Lời nói đầu” Lê Phú
Khải đã đưa đến cho người đọc một thông tin gây sốc: “Tôi nhớ, vào đầu những
năm 80 của thế kỷ trước, khi Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn vô thăm tỉnh Tiền Giang.
Ban Thường vụ tỉnh ủy lúc đó đứng đầu là Bí thư Tỉnh ủy Chín Hải (tức Lê Văn
Phẩm), và Chủ tịch tỉnh Sáu Bình (Nguyễn Công Bình) dẫn TBT Lê Duẩn vô thăm
vùng Đồng Tháp Mười thuộc địa phận Tiền Giang (90.000 ha). Đứng trước cánh đồng
bao la bát ngát của vùng Đồng Tháp Mười, TBT Lê Duẩn chỉ tay về cánh đồng trước
mặt, hỏi:
- Trồng những cây gì thế kia?
Bí thư Tỉnh ủy Chín Hải lễ phép trả lời:
-Thưa Tổng Bí thư, đó là rừng tràm ạ.
Bỗng mọi người sửng sốt khi nghe TBT quát:
-Ngu! Ngu! Sao không trồng lúa?
Trước cơn giận dữ của TBT vì sao tỉnh lại không trồng
lúa ở Đồng Tháp Mười mà lại trồng tràm... thì mọi người chỉ còn biết chết lặng
mà thôi. Ai dám cãi lại? Ai dám cả gan giải thích cho đồng chí TBT rằng, đất
Đồng Tháp Mười là đất phèn nặng, chỉ trồng tràm là hợp nhất mà thôi... Khi TBT
Lê Duẩn đi rồi, tôi nghe rõ tiếng than của Bí thư Tỉnh ủy Chín Hải:
-Ông Ba (tức Lê Duẩn) quay cờ rồi (!)”.
Sự kiêu ngạo của nhà lãnh đạo quốc gia thiếu một nền
học vấn cơ bản, xuất thân từ nghề bẻ ghi xe lửa được phản ánh khá rõ qua tác
phẩm “Quyền làm chủ tập thể” và kế hoạch hoang đường “sắp xếp lại giang sơn”
với 500 pháo đài XHCN, khiến giáo sư Tạ Quang Bửu phải thốt lên: “Tôi là một
nhà toán học, tiếp xúc nhiều với khái niệm trừu tượng, nhưng tôi chưa thấy cái
gì trừu tượng bằng khái niệm làm chủ tập thể”. Nói về việc sáp nhập các tỉnh,
các huyện thành đơn vị hành chính lớn của Lê Duẩn gây bao phiền toái cho dân,
tác giả nhận xét: “Có xe hơi mà chúng tôi đi từ Lạng Sơn sang Cao Bằng để gặp
lãnh đạo Cao Lạng phải toát mồ hôi hột thì nhân dân, cán bộ trong tỉnh miền núi
này đi lại vất vả biết nhường nào. Chỉ sau một giấc ngủ, các nhà lãnh đạo trong
thể chế toàn trị độc tài hứng chí lên là có thể sáp nhập các tỉnh trong cả nước
một cách vô lối và điên rồ như thế...”.
Các kế hoạch “hoành tráng” đổ vỡ, đời sống bế tắc, xã
hội uể oải bởi chính sách cai trị quái đản của những người Cộng sản mất hết
lương tri, khiến dân gian lưu truyền nhiều giai thoại độc đáo về ông Đảng
trưởng coi trời bằng vung để xả nỗi bực tức. Một trong những tiếu lâm truyền kỳ
ấy là, có anh chàng mò đến số 6 Hoàng Diệu xin gặp Tổng Bí thư. “Bảo vệ hỏi:
anh quan hệ với TBT như thế nào? Anh chàng kia trả lời: Bạn học cũ! Anh ta liền
bị còng tay ngay vì đồng chí Lê Duẩn có đi học bao giờ đâu mà có bạn học!”.
Đời tư Lê Duẩn cực kỳ phức tạp, và quan hệ tình ái của
ông ta cũng khá lăng nhăng, vô trách nhiệm như hầu hết các ông lớn Cộng sản
khác. Trong mục “Nguyễn Hà Phan, bi hay hài”, Lê Phú Khải viết lại những gì
được nghe từ người em họ Lê Thị Tuyết, Phó Ban Tài chính Trung ương Đảng đã kể:
“Khi bà vợ hai của Lê Duẩn báo sẽ ra Bắc, thì lập tức cô phải điều bác sỹ đến
khám sức khỏe cho bà cả. Rồi theo kịch bản, bác sỹ la lối lên “sức khỏe chị Cả
kém lắm rồi, phải đi Tam Đảo nghỉ ngơi!”. Khi bác sỹ đến khám, có cả hai nữ
công an mặc quân phục, đeo súng bên hông rất oai để “bảo vệ” chị Cả đi Tam Đảo
an dưỡng… Thấy mình oai quá, chị Cả đi liền. Thế là tối đó, đưa Tổng Bí thư lên
biệt thư ở Hồ Tây, chị Hai từ Sài Gòn ra, xuống sân bay là đưa thẳng đến biệt
thự! Có lần cô còn tố cáo với vợ tôi: Lê Duẩn tàn độc lắm, có lần ngủ với cô y
tá được cử đến để đấm bóp cho ông ta. Sau khi ngủ với cô y tá này, ông ta ra
hiệu phải… Cô Tuyết nói nguyên văn với vợ tôi: - Em là phụ nữ, có chồng có con,
lại theo đạo Phật, không bao giờ em làm điều thất đức”.
Nhân cách Lê Duẩn không chỉ như vậy, ông ta còn là thủ
phạm gây ra sự biến Mậu Thân tắm máu đồng đội. Tác giả cuốn hồi ký nhận xét:
“Tết Mậu Thân là tội ác trời không dung, đất không tha. Biết là lộ, là thua rồi
vẫn cứ lùa quân đi vào chỗ chết. Nhiều chiến binh ở Nam Bộ còn sống sót trong
Tết Mậu Thân đã kể với tôi, quân ta đi đánh thì máy bay do thám của địch bay
trên đầu, địch biết hết nên đánh đợt hai đi 100, về chỉ còn 1, 2...”.
Lê Đức Thọ là nhân vật gian hùng số một của triều đình
Cộng sản Việt Nam. Nếu Lê Duẩn là Vua, thì trên thực tế Sáu Búa (biệt danh của
Lê Đức Thọ) là Tể tướng chứ không phải Phạm Văn Đồng. Trưởng Ban Tổ chức Trung
ương thời kỳ ấy là chức vụ siêu quyền lực. Lê Đức Thọ sử dụng hệ thống mật vụ
kiểu KGB giám sát nhất cử nhất động tất cả các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Trung ương đến các Bộ trưởng, Thứ trưởng... Đó là một xã hội bị bóp nghẹt dưới
sức nặng của chính sách hộ khẩu, chính sách tem phiếu và mạng lưới công an, đặc
tình (chỉ điểm) khiến người dân chẳng khác gì những tội đồ trong một trại tập
trung khổng lồ. Sáu Thọ như một phù thủy cao tay ấn điều khiển đám âm binh,
trong đó có Tổng cục 2, chế tạo ra nhiều vụ án tưởng tượng để thanh toán phe
đối lập trong Đảng.
Ngay từ khi ký hiệp định Genève, Lê Đức Thọ cũng như
Lê Duẩn đã tỏ ra ghen tức vầng hào quang Điện Biên của tướng Giáp, đến khi hai
nhân vật này nắm trọn quyền lực trong tay thì số phận Vainqueur de Dien Bien
Phu (người chiến thắng ở Điện Biên Phủ) như báo chí Phương Tây gọi là vô cùng
cay nghiệt. Cũng về nhân vật đầy mưu mô xảo quyệt này, tác giả viết: “Theo cách
phân loại con người qua ba tiêu chí: thông minh, lương thiện và Cộng sản, mà
ông Hà Sĩ Phu nói đến, thì, nếu thông minh mà Cộng sản thì gian hùng như Lê Đức
Thọ, nếu lương thiện mà Cộng sản thì bầm dập, nếu thông minh và lương thiện thì
không theo Cộng sản”.
Bàn tay sắt của Sáu Búa cùng với công cụ chuyên chính
do Trần Quốc Hoàn nắm giữ đã tiến hành bắt giữ hàng loạt cán bộ trung, cao cấp
trong vụ án gọi là “Xét lại chống Đảng năm 1967”. Theo nhà nghiên cứu người Mỹ
Sophie Quinn-Judge đã viết trên tờ Journal of Cool War History (Lịch sử chiến
tranh lạnh), tháng 11 năm 2005, thì vụ án này có 300 người bị bắt, trong đó có
30 nhân vật cao cấp, tất cả bị giam giữ lâu và không xét xử gì cả, rồi thả dần.
Theo nhận xét của Nguyễn Kiến Giang, một nạn nhân
trong chiến dịch thanh trừng này kể lại, thì Lê Đức Thọ, ngay từ những năm bảy
mươi của thế kỷ trước đã có ý định lật đổ Lê Duẩn. Ông kể lại: “Lê Duẩn lên
Tổng Bí thư, ông Trường Chinh bảo tôi sang gặp anh Ba Duẩn để xin anh ấy các
bài viết, các phát biểu… đem về in thành sách... Ông Duẩn rất cởi mở, đưa tôi
một ôm tài liệu, bảo muốn làm gì thì làm… Tôi đọc kỹ thấy ông Duẩn không hiểu
gì về chủ nghĩa Marx cả, chỉ có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa… Khi trao đổi với Lê
Đức Thọ khi ông vào thăm tôi ở trong tù, tôi có nói ý đó. Thọ bảo tôi viết lại
thành tài liệu đưa Thọ. Thọ về rồi, tôi suy nghĩ kỹ. Thọ nham hiểm lắm, muốn
lợi dụng tôi để lập hồ sơ về Lê Duẩn, khi cần thì sử dụng. Đó là cách Thọ
thường làm. Thì ra Thọ đã có ý lật Lê Duẩn từ đó. Nghĩ thế nên tôi không mắc
lừa, không viết gì phê phán Lê Duẩn là dân tộc chủ nghĩa cả!”.
Còn một chuyện khá khôi hài nhưng lại là hiện thực về
sự đa nghi đúng chất Tào Tháo của “Ông cố vấn” từng được Giải Nobel hòa bình,
vẫn do cô em Lê Thị Tuyết kể với tác giả cuốn hồi ký: “Có lần cô Tuyết kể trực
tiếp cho tôi nghe, khi cần vụ của Lê Đức Thọ đem một cái chăn bông đã rách nát
đến đổi chăn bông mới, cô nói với chú cần vụ này: Thủ trưởng của câu tiết kiệm
quá, chăn rách cả mền, lòi cả bông ra thế này mới chịu đem đổi. Cậu ta cười
nói: Tiết kiệm cái con tiều! Tối nào trước lúc đi ngủ ông ta cũng nắn bóp cái
chăn đến nửa tiếng đồng hồ, chỉ sợ người ta gài mìn thôi... nên chăn mới rách
bươm ra như thế. Tối qua, bông nó xổ ra, bay tứ tung làm ông ấy ho suốt đêm nên
sáng nay mới bảo tôi đem đổi!”.
Trong đời mình, Lê Đức Thọ đã gây ra không biết bao
nhiêu tội ác với dân tộc, hãm hại không biết bao nhiêu người lương thiện, vì
thế, sau khi ông ta chết, gia đình các nạn nhân vẫn không quên trả thù bằng
cách hàng tuần bí mật đổ phân tươi lên phần mộ. Cuối cùng, gia đình Sáu Búa
phải dời mộ từ Mai Dịch về quê.
Là một trí thức có tư tưởng cấp tiến, Lê Phú Khải nhận
rõ bản chất của cái gọi là “báo chí cách mạng”. Trước khi bàn sâu về nền báo
chí của nhà nước độc tài toàn trị, tác giả kể một chuyện vui nghe như tiếu lâm
hiện đại thời bao cấp: “Không hiểu vì lý do gì hay sơ xuất mà trong khi mỗi
nhân viên phục vụ ở Quốc hội được phát một phiếu mua hàng, còn ba nhà báo mới
được một, nên phải bốc thăm để loại nhau. Một đồng nghiệp của tôi ở TTXVN mới
phán một câu xanh rờn: Thì ra ba thằng bồi bút mới bằng một con bồi bàn!”.
Nghĩ về thân phận nhà báo, Lê Phú Khải viết: “Ở nước
ta báo chí chỉ có một thang bậc giá trị là chức vụ hành chính. Và thực chất,
các nhà báo của chúng ta là những ông công chức trong cơ quan nhà nước. Họ chỉ
có thể tiến thân bằng con đường quan chức báo chí. Vì thế, có thể nói nước ta
chưa có báo chí, chưa có “nhà báo” đúng nghĩa vì chỉ có báo quốc doanh. Thậm
chí, có nơi chẳng “doanh” gì cả. Họ lấy tiền công quỹ ra để in báo rồi biếu
không cũng chẳng ai đọc. Một phóng viên dù tài giỏi đến đâu nếu không có một
chức sắc gì trong cơ quan, thì cũng chỉ là nhân viên hạng... chót!”. Cũng bởi
đã lăn lộn với nghề báo chí minh họa, hiểu được bản chất của hệ thống tuyên
truyền nên tác giả khẳng định, nhà nước có hơn 800 tờ báo, tạp chí và cả trăm
đài phát thanh truyền hình nhưng chỉ có một Tổng Biên tập là Trưởng Ban Tuyên
giáo Trung ương, vì “đảng ta” dứt khoát không chấp nhận báo chí và xuất bản tư
nhân. Thế mới có chuyện cười ra nước mắt: “khi chiến sự ở Iraq nổ ra, một tờ
báo ở TP HCM năng nổ cử phóng viên thạo tiếng Anh đi Iraq viết tin, bài... thì
lập tức bị cấp trên phê phán là chưa báo cáo xin phép!”. Trong khi đó, nữ “phù
thủy” Lê Bình, Giám đốc chương trình “Chuyển động 24 giờ”, lại cùng ê kíp cánh
hẩu, ngụy tạo bộ phim về chiến sự ở Syria mà nội dung hoàn toàn ăn cắp của các
đồng nghiệp người Nga, thì lại được công chiếu trên VTV1(!?).
Một thể chế chính trị xôi thịt tất yếu sản sinh một
nền báo chí nhếch nhác, tuy luôn tự khoe là “cách mạng”, “vì dân tộc”, “vì tổ
quốc XHCN”, nhưng thực chất guồng máy quản lý toàn một lũ hoạt đầu, lưu manh,
trục lợi và tống tiền như Trần Mai Hạnh, Vũ Văn Hiến, Vũ Văn Hiền, Hồng Vinh,
Nguyễn Công Khế, Huy Cá Rồ... Về Vũ Văn Hiến, Lê Phú Khải không lạ gì nhân vật
đầy tai tiếng này: “Hiến vướng vào những vụ tham nhũng khi xây dựng các công trình
ở Đài Truyền hình. Dư luận đã ầm ĩ một thời gian, nhưng giống như hàng ngàn ông
quan tham khác, y vẫn hạ cánh an toàn. “Triều đại” của Hiến đã để lại cho Đài
Truyền hình một lớp cán bộ thật “ấn tượng”. Điển hình là Lại Văn Sâm. Một Việt
kiều ở Pháp vô tình biết tôi từng làm phát thanh và truyền hình đã kể rằng, khi
Lại Văn Sâm qua Pháp làm việc, đồng bào yêu quý các nhà báo quê hương nên đã tổ
chức nhau mời Lại Văn Sâm một bữa cơm. Thấy các món ăn sơ sài quá, Lại Văn Sâm
đã trừng mắt nói: “Mời Lại Văn Sâm mà thế à?”. Nghe xong tất cả mọi người đã
kinh ngạc về nhân cách văn hóa thấp kém của Sâm”.
Là trí thức có nền học vấn đại học nghiêm túc, có tầm
văn hóa dày dặn, lại có chú ruột là tướng công an nhưng Lê Phú Khải không vào
đảng, không ham chức tước mà chỉ chỉ muốn làm một nhà báo đúng nghĩa, tự do
rong ruổi khắp những dặm dài đất nước. Từ biên chế ở Đài Tiếng nói Việt Nam,
tác giả dám “Nam tiến” làm một phóng viên tỉnh lẻ Đồng Bằng Sông Cửu Long,
chứng tỏ bản lĩnh đáng nể của kẻ sĩ Hà Thành cùng với đặc tính thích phiêu lưu
mạo hiểm của người làm báo có nhân cách. Và cũng chính bởi cuộc “thiên di” bất
đắc dĩ theo tinh thần “tự cứu mình trước khi trời cứu” này, Lê Phú Khải đã
thành danh. Ông lặn lội khắp hang cùng ngõ hẻm vùng châu thổ sông Cửu Long, dấn
thân vào cuộc nhân sinh đầy cam go, kết giao với nhiều bạn bè, hòa đồng được
văn hóa Bắc Kỳ với tính cách hào sảng của các Anh Hai Nam Bộ. Và cũng do cơ may
ấy, ông viết được hàng chục đầu sách có giá trị về vùng đất phương Nam trù phú,
về văn hóa đặc thù Miệt Vườn, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc trong và
ngoài nước.
Định cư ở vùng sông nước Nam Bộ, với tư cách là người
làm báo ưa phản biện, Lê Phú Khải luôn hy vọng góp một chút công sức vào sự
phát triển của đất nước, đồng thời tác động ít nhiều đến bộ óc trì trệ của
những nhà lãnh đạo quốc gia bảo thủ, vô cảm và quan liêu. Nhưng rồi ông hoàn
toàn thất vọng khi mà những nghịch lý cứ phơi bày ra trước mắt: “Thật là chua
chát! Cho đến nay khi Việt Nam đã xuất khẩu gạo vào hàng nhất nhì thế giới, nhưng
càng xuất nông dân ĐBSCL càng nghèo và các nhóm lợi ích càng giàu. Người làm ra
hạt lúa thì nghèo, kẻ đi buôn gạo được lấy tiền ngân hàng lãi suất thấp đi
buôn, buôn độc quyền thì phè phỡn. Tham nhũng thành quốc nạn, lãnh thổ bị gặm
dần bởi anh bạn 16 chữ vàng, đất nước đứng bên bờ vực thẳm. Đó là kết quả của
đại hội VI, chỉ cải cách kinh tế mà không cải cách chính trị, dẫn đến một nền
kinh tế của bọn mafia. Tôi chỉ còn một con đường là cầm bút viết cho báo 'lề
trái', viết cho mạng Internet tự do”.
Nghĩ lại cuộc tranh chấp ruộng đất vùng Đồng Bằng Sông
Cửu Long những năm tám mươi, Lê Phú Khải chỉ ra nguyên nhân sâu xa của nó nhưng
nhà cầm quyền có thói quen ăn sẵn chỉ giải quyết phần ngọn: “Chính sách hợp tác
hóa của Đảng là nguyên nhân của tội ác này. Và nói thật công bằng, giới báo chí
cũng phải chịu trách nhiệm về tội ác này vì đã cổ vũ cho phong trào 'hợp tác
hóa'. Trong những tội ác mà báo chí đã gây ra, có tôi, kẻ viết những dòng chữ
này cũng nhúng tay vào tội ác đó. Chính tôi đã viết không biết bao nhiêu tin,
bài cho đài cho báo để cổ vũ cho hợp tác hóa vì sự ngu dốt, ngộ nhận của mình”.
Tuy nhiên, việc tự “thú tội” với việc thay đổi cách viết để “phục thiện” là cả
một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, bởi vì: “... báo chí dưới sự lãnh đạo của
Đảng chỉ để ca ngợi, để minh họa đường lối của Đảng, để 'đưa nghị quyết của
Đảng vào cuộc sống'. Báo chí không cần dự báo, không được 'bôi đen' chính sách
của Đảng và không cần đưa cuộc sống vào nghị quyết Đảng”.
Chính hệ thống báo chí với bản chất minh họa như vậy nên
mới đẻ ra những Tổng Biên tập dốt nát, cơ hội và tham nhũng. Có lẽ vì thế nên
trong Lời ai điếu, Lê Phú Khải đã
dành hẳn một mục “Mặt thật của các Tổng Biên tập” rất đáng đọc. Ở mục này, tác
giả điểm qua một vài gương mặt tiêu biểu của làng báo Việt Nam với hàng loạt vụ
lùm xùm mà điển hình là Trần Mai Hạnh, Lê Quang Trang, Vũ Văn Hiến, Hồng Vinh
và Nguyễn Công Khế. Với Lê Quang Trang, tác giả viết: “Tổng Biên tập báo Đại
Đoàn kết Lê Quang Trang dùng tờ báo của mình để bênh vực, ăn chia với các quan
tham ở Đồ Sơn trong vụ bê bối đất đai ở đây ồn ào dư luận cả nước một thời. Lê
Quang Trang bị cách chức, về hưu. Hai vợ chồng... ôm tiền vào Sài Gòn mua nhà ở
Phú Mỹ Hưng... Vậy mà anh ta lại được cơ cấu làm Chủ tịch Hội Nhà văn TPHCM, vì
thế phải cơ cấu làm Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam(!?). Đảng sẵn sàng 'bỏ
qua' tội lỗi của anh và cần một nhà văn ngoan ngoãn, 'biết lỗi' và tận trung
với Đảng trong lúc đang suy yếu và có rất nhiều 'thế lực thù địch' xuất hiện
ngay trong hàng ngũ các nhà văn quốc doanh. Trong khi đó, Trần Mai Hạnh phải
“đáo tụng đình” vì nhận 93 triệu đồng “tiền lót tay” trong vụ Năm Cam để làm lộ
bí mật và chạy án cho tên trùm xã hội đen này. Trước khi “nhập kho” ông này
từng là Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam.
Những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam nghèo xác xơ, các
nhà báo làm việc trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thì Trần Mai Hạnh sống
như một đại gia. Ông ta sử dụng phương tiện truyền thông bảo kê cho các nhóm
lợi ích, tàn phá đất nước, kéo tay chân đi nước ngoài, dùng tiền thuế của dân
mua nhà núp dưới chiêu bài “cơ quan thường trú” với giá đắt gấp nhiều lần để ăn
chênh lệch. Còn Tổng Biên tập báo Thanh
Niên Nguyễn Công Khế thì bí mật gửi bài viết của cộng tác viên cho cơ quan
an ninh Hà Nội để lập công với Đảng: “Khế luôn dùng tờ báo của mình để gây
thanh thế, chẳng hạn y cho phóng viên của báo đi viết về tiêu cực, nhưng khi vụ
việc có liên quan đến một ông lớn nào đó… Ví dụ, đồng chí X xưa kia ở tỉnh Y,
nay đã lên Trung ương làm đến Bộ Chính trị mà bài viết có dính líu đến đồng chí
đó khi còn ở địa phương thì Khế không đăng mà gửi bài cho đồng chí ấy biết 'để
giữ uy tín' cho lãnh đạo, thế là đồng chí X đã 'mắc nợ' Khế. Khi báo Thanh Niên tổ chức một cuộc thi hoa hậu
nào đó, Khế gửi giấy mời, thế là đồng chí ấy, dù là Chủ tịch nước cũng phải đến
dự tận quê Khế ở Miền Trung xa xôi! Một tờ báo hạng B mà Bộ Chính trị phải đến
dự thì uy tín của Khế lên như diều… Cứ thế mà Khế “ra roi”, cứ thế mà dọa nạt
thiên hạ để tống tiền”.
Một người bạn của tác giả kết luận sau khi kể câu
chuyện trên: “Nguyễn Công Khế là tên lưu manh ngang tầm thời đại”. Thế nên đám
tang mẹ Khế vào tháng 9 năm 2007, được so sánh là linh đình hơn cả tỷ phú Mỹ.
Tài nghệ tống tiền của tay Tổng Biên tập này điêu luyện đến mức, hầu hết các Ủy
viên Bộ Chính trị đều trực tiếp mang vòng hoa đến viếng như lễ tang nguyên thủ
quốc gia. Tác giả nhận xét: “Có thể nói, đây là đám tang mẹ một Tổng biên tập
một tờ báo ngành của một nước nhỏ nhưng “vĩ đại” nhất hành tinh, chưa hề thấy
trong lịch sử báo chí nhân loại. Trong chế độ toàn trị, một Tổng Biên tập chỉ
cần không chống chế độ, không nói ngược với đường lối của đảng cầm quyền, biết
luồn lách, biết dùng tờ báo của mình để nịnh bợ, dọa nạt và khống chế, biết té
nước theo mưa, biết gió chiều nào che chiều ấy, giả vờ chống tham nhũng… thì
anh ta kiếm bẫm hơn bất cứ nhà buôn nào, có thế lực như một ông vua không
ngai”.
Bên cạnh những thành phần bất hảo ngồi chót vót ở đỉnh
cao quyền lực hay bọn sai nha chuyên bưng bô đổ vịt, ăn tàn phá hại, Lê Phú
Khải cũng đưa đến cho công chúng một số gương mặt thực sự con người. Họ đã bằng
tấm lòng và năng lực của mình, tận tụy phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân,
nhưng lại bị chính các “đồng chí” của mình tìm đủ cách hãm hại. Thời Lê Duẩn,
Lê Đức Thọ, ngoài các vụ án oan như “Cải cách ruộng đất”, “Nhân văn Giai phẩm”,
“Xét lại hiện đại”..., xử tử hàng trăm ngàn người, đưa hàng chục ngàn khác vào
các trại tập trung không qua xét xử, những người Cộng sản Việt Nam còn xuống
tay “xử lý” cả những công thần của chế độ. Số cán bộ cao cấp bị thanh toán hoặc
vô hiệu hóa như một thứ tù giam lỏng không loại trừ một ai, từ danh tướng Võ
Nguyên Giáp đến Bảy Trân, Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm đến Lê Trọng
Nghĩa, Lê Hữu Qua..., thậm chí cả Võ Văn Kiệt đã giải nhiệm nhưng người ta vẫn không tha vì tội dám
nói trái ý Đảng.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả để ra đến 50 trang
viết về chân dung ba nhà cách mạng nổi tiếng một thời, được nhân dân và quân
đội kính trọng, biết ơn, nhưng lại bị đối xử là “thế lực thù địch”. Đó là ba
ông họ Võ: Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt (Phan Văn Hòa) và Võ Viết Thanh. Võ
Nguyên Giáp bị Tổng cục 2 lập hồ sơ, vu cho là con nuôi Chánh Mật thám Đông
Dương. Tướng Võ Viết Thanh không chịu xét xử vụ án ngụy tạo “Sáu Sứ Năm Châu”
do Lê Đức Thọ sắp đặt để dằn mặt tướng Giáp, bị mất chức với lý do bố mẹ đã
“khai báo” khi bị địch bắt. Còn Võ Văn Kiệt sau chuyến ra Hà Nội, về Sài Gòn,
thì qua đời...
Có thể nói, những cán bộ Cộng sản muốn làm người tốt
là rất khó. Cả một guồng máy dối trá, lừa lọc và tàn độc cai trị đất như các
băng đảng tội phạm. Chúng luôn tìm cách hãm hại người lương thiện, coi đất nước
là tài sản riêng của một nhóm đặc quyền đặc lợi, vì thế, lúc này, vấn đề dân
chủ vẫn còn là một cái gì quá xa vời...
Lời ai điếu của Lê Phú Khải thực chất là tiếng nói lương tâm của
một nhà báo có bản lĩnh và nhiệt huyết sau một đời cầm bút khi đã hiểu quá rõ
bản chất chế độ độc tài toàn trị. Ông dũng cảm xé toạc tấm màn nhung che đậy
những thứ gọi là “bí mật quốc gia”, phơi bày sự thật khủng khiếp vương triều
Cộng sản cai trị đất nước mấy chục năm qua. Chính họ là nguyên nhân đưa đất
nước vào tình cảnh thảm hại của ngày hôm nay...
Làng Bần, ngày báo chí “cách mạng” Việt Nam
(21.6.2017)
T.V.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét