NGUYỄN THƯỢNG LONG.
Vào buổi trưa 30 – 4 – 1975, trong một căn
gác nhỏ ở Đường Yêt Kiêu – Hà Nội, khi nghe tin các xe tăng của quân giải phóng
đã húc đổ cổng sắt dinh Độc Lập, nhạc sĩ tài danh Văn Cao đã nghĩ đến viễn cảnh:
“
Từ nay người biết thương người / Từ nay người biết yêu người”. Không
biết sau 43 năm ngày 30 – 4, ở bên kia thế giới, nhạc sĩ Văn Cao có day dứt
điều gì không khi cảm hứng đó không hề trở thành hiện thực. Ông có bao giờ nghĩ,
đằng sau vừng hào quang 30 – 4 rực mầu máu đó, ông và đồng bào của ông … hóa ra
cũng chỉ là những con tốt tầm thường trong những ván bài mà cầm chịch là những
cường quốc ngoại bang và “Một bên thắng…còn nhân dân đều bại”
(ND).
Dễ hiểu thôi, dân tộc Việt Nam có
truyền thống chống ngoại xâm, điều đó không cần bàn cãi, nhưng chúng ta cũng là dân tộc nhẹ dạ và cả
tin đến nỗi “Trái Tim lầm lỡ để trên đầu” (Tố Hữu). “BÊN THẮNG CUỘC” thì quá
tin vào “Tấm biển chỉ đường của trí tuệ” (HSP) và cộng sản Nga Tầu sẽ
đưa mình tới thiên đường XHCN. “BÊN THUA CUỘC” lại quá tin vào thế
giới tự do với cường quốc số 1 Hoa Kỳ sẽ giúp mình không bị nhuộm “ĐỎ” và họ sẽ
đưa quốc gia mình tới thịnh vượng. Chính vì sự cả tin đó, chúng ta cùng rơi vào
thân phận là những quân cờ trên bàn cờ của các nước lớn lúc nào không biết.
Thái độ nửa vời của các nước lớn Liên Xô – Mỹ - Trung Quốc trong những gì đã diễn
ra suốt từ 8 – 1945 qua Hội nghị Giơ ne vơ 1954, qua Hội nghị Pari 1973, qua sự
kiện Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, qua chiến tranh biên giới phía Bắc 2
– 1979, qua thảm sát Gạc Ma 1988 thậm chí là ngay cả lúc này dù Việt Nam công
khai thực thi đường lối “Đu dây” giữa các nước lớn để tồn tại thì thân phận chỉ
là quân cờ trên bàn cờ quốc tê của chúng ta
vẫn không có gì thay đổi.
Cái giá mà dân tộc Việt Nam phải trả cho sự cả tin là vô
cùng thê thảm. Hãy xem cái bóng đen Trung Quốc đã phủ bóng lên đất nước này, dân
tộc này ngay từ Hội Nghị Giơ ne vơ 1954 như thế nào: Hồi ký của nhà báo quốc tế
U - Bơc sét trang 264 có đoạn viết : “…Ông Phạm Văn Đồng đã chấp nhận thỏa hiệp
quan trọng do sức ép của Trung Quốc. Những thỏa hiệp đó… Chu
Ân Lai đạt được trong các cuộc gặp song phương với Măng đét Phrăng xơ (Thủ
Tướng kiêm Bộ Trưởng ngoại giao Pháp – NTL). Vào ngày 10 – 7 – 1954 ông Phạm
văn Đồng đã chấp nhận một đường ranh giới quân sự tạm thời dọc theo vĩ tuyến 16
(Thực tế lúc ký kết lại là vĩ
tuyến 17 – NTL) chứ không phải là vĩ tuyến 13 như ông đã đề nghị. Ông cũng phải chấp
nhận các cuộc bầu cử của mỗi miền sau 2 năm chứ không phải là 6 tháng và ông đã
rút lui những đòi hỏi cho những người Khơ me ít xa rắc và Pa thét Lào cùng tham
gia hội nghị.” (Nhà xuất bản Thông Tin lý luận – Hà Nội 1985).
Chu Ân Lai đến với Hội Nghị Giơ ne vơ 1954.
Vì áp lực của Chu Ân Lai, ông Đồng buộc phải chấp nhận những thua thiệt quá lớn.
Bình luận về giây phút ông Đồng đặt bút ký hiệp định đình chiến Giơ ne vơ , U
Bơc sét viết tiếp: “ Ông Phạm Văn Đồng xúc động sâu
sắc nói với chúng tôi : Tôi chẳng biết sẽ giải thích việc này như
thế nào với các đồng chí đồng bào chúng tôi ở miền Nam ” (Hết trích). Than ôi!
Ký một văn bản quốc tế quan trọng liên quan đến vận mệnh của cả 3 nước Đông
Dương mà ông Đồng phải than lên những lời như thế, hóa ra ông Đồng ký trước hết
là vì Trung Quốc chứ đâu có phải ông Đồng ký vì 3 dân tộc Đông Dương.
Chịu áp lực của Trung Quốc đến như vậy mà sau
Hiệp Định Giơ ne vơ, ĐCS Việt Nam vẫn tiến hành tiếp một cuộc chiến đẫm máu
đồng bào kéo dài 20 năm (1955 – 1975) với niềm tin ngô nghê:,“Bên ni biên giới là nhà / Bên tê biên giới cũng là quê hương” và “Trung
Quốc là hậu phương rộng lớn của Việt Nam”. Còn lãnh đạo cộng sản Việt Nam
vẫn cứ bắt nhân dân theo mình nghĩ: “Bác Mao chẳng ở đâu xa - Bác Hồ ta đó chính
là Bác Mao”. Họ đâu có biết Mao chỉ muốn biến Bắc Việt Nam trở thành
vùng đệm an toàn cho lãnh thổ Trung Quốc, nên Mao chủ trương đánh Mĩ là đánh
đến người Việt Nam cuối cùng, nên khi chiến tranh phá hoại của Mỹ lan rộng ra
miền Bắc Việt Nam… Mao làm nghĩa vụ cộng sản quốc tế với Việt Nam kiểu gì mà lại bóng gió bắn tin
đến phía Mỹ: “Mi không đụng đến ta thì ta
không đụng đến mi!”. Về phía Mỹ…giữa lúc các nỗ lực rút chân ra khỏi bãi
lầy Việt Nam
đang lâm vào bế tắc, thông điệp đó của Mao có khác gì chiếc phao được ném cho
kẻ đang chới với giữa sóng dữ. Không bỏ lỡ thời cơ, hoạt động ngoại giao bóng
bàn giữa Trung Quốc và Mỹ diễn ra sôi động đánh dấu giai đoạn tan băng trong
quan hệ 2 nước. Và ngày 28/2/1972 Nickson và Mao ký Tuyên Bố chung Thượng Hải,
Trung Quốc đã hiện nguyên hình là kẻ đâm sau lưng dân tộc Việt Nam , bán đứng dân tộc Việt Nam . Diễn biến này hình như vẫn
chưa đủ độ cay đắng để ĐCS Việt Nam
đang say máu sớm bừng tỉnh để cảnh giác trước kẻ hàng xóm tồi tệ của mình.
Nhiều năm liền hội đàm Ba Lê (1968 – 1973)
chỉ là nơi để các chính trị gia đeo kính đen ngủ gật và đấu khẩu theo kiểu kéo
cưa lừa xẻ. Với Tuyên bố chung Thượng Hải 1972 trong tay…tháng 12 năm đó Mỹ
hoàn toàn yên tâm Trung Quốc sẽ không can thiệp khi Mĩ mở chiến dịch Linebacker II dùng siêu pháo đài bay B52 ném
bom dã man vào Hà Nội, những mong đưa Bắc Việt trở về thời đồ đá và đem lại một
kết thúc chiến tranh có lợi cho đồng minh VNCH. Không đầy một tháng sau trận
bom dữ dội đó, ngày 27 – 1 - 1973, dưới sức ép của cả 3 siêu cường Mỹ - Nga –
Trung Quốc, VNCH và VNDCCH buộc phải ký hiệp định Pari. Hà Nội thắng lớn vì
không phải triệt thoái toàn bộ lực lượng vũ trang của mình ra khỏi phần đất
phía nam vĩ tuyến 17. VNCH rơi vào tình thế bị bỏ rơi. Người Mỹ chính thức bước
ra khỏi con đường hầm không lối thoát đang làm rúng động nước Mỹ. Luôn tự nhận
mình là đỉnh cao trí tuệ mà những lãnh đạo cộng sản ngày đó lại không hề nhìn
thấy một tình thế quá rõ là: Hệ thống XHCN đã bắt đầu khủng hoảng, mô hình xô
viết đã bắt đầu rạn nứt. Liên Xô thực sự hụt hơi vì chậy đua vũ trang với Mỹ và
oằn lưng vì gánh vác nghĩa vụ quốc tế trong đó có Việt Nam …thì cú bắt tay Mĩ - Trung Quốc đã đặt cách mạng Việt Nam
vào thế Địa Lý - Chính Trị rất bất lợi. Mỹ không chỉ có lỗi bỏ rơi đồng minh
chiến lược của mình là VNCH, vin vào lý
do Phạm Văn Đồng đã ký công hàm 1958 Mỹ - Nga cùng ngoảnh mặt đi để mặc Trung Quốc
tự do cưỡng chiếm Hoàng Sa phần lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam (1974) nên
từ đó cho tới ngày 30 / 4 / 1975 chiến tranh Việt – Mỹ không còn là sự xung đột
của ý thức hệ, nó chỉ còn là cuộc nội chiến tương tàn. Với lực lượng áp đảo,
cùng khối lượng vũ khí chiến cụ đạn được vô cùng hùng hậu của Nga – Tầu, con
Lạc cháu Hồng miền Bắc nhanh chóng hạ gục con Lạc cháu Hồng miền Nam lúc đã bị
Mỹ bỏ rơi. Đất nước đã được thống nhất theo lời hiệu triệu hết sức ngớ ngẩn của
đảng trưởng Lê Duẩn “Ta đánh là đánh cả cho Liên Xô và Trung Quốc” . Cuộc đánh đấm
đó có phải là đánh giặc ngoại xâm như cha ông trên suốt chiều dài lịch sử đâu
mà mãi mãi tự hào !
Hình ảnh một Đặng Tiểu Bình, 10 h sáng
29/1/1979 tại thảm cỏ trước Nhà Trắng, xúng xính trong bộ đồ của một cao bồi
miền viễn tây, ông ta cao hứng luận bàn về “Mèo Trắng – Mèo Đen” và thẳng thừng
đe dọa sẽ “Dậy cho bọn tiểu bá côn đồ Việt Nam một bài học!”…Vậy mà lời
tuyên bố đầy tính xúc phạm đó của Đặng Tiểu Binh cũng chẳng làm BLĐ Việt Nam giật
mình mà bừng tỉnh cơn mê : “Với đại thắng
30 – 4 – 1975…từ nay sẽ không còn kẻ nào dám xâm lược bờ cõi chúng ta nữa!”
. Đâu có lâu la gì, hơn 2 tuần lề sau 17 – 2 – 1979 lời cảnh cáo của Đăng Tiểu
Bình đã thành hiện thưc. Trong bối cảnh cả Nga cả Mỹ đều làm ngơ, cuộc chiến
tranh biên giới được kích hoạt với 60 vạn lính sơn cước Trung Quốc đồng loạt
tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam Cuộc chiến tranh này
mãi mãi là nỗi đau nhức nhối của người Việt Nam. Tháng 3 – 1988 Trung Quốc
cưỡng chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam .
Nghe nói ngày đó Bộ Trưởng quốc phòng Lê Đức Anh chỉ thị là không được đánh trả
với cung cách không thể hèn hạ hơn: “Nếu họ tấn công chúng ta bằng súng đạn! Ta
đáp trả họ bằng tình hữu nghị!” nên trận chiến đó chỉ là một cuộc thảm
sát kinh hoàng, 64 chiến sĩ công binh Việt Nam
bị lính Tầu bắn hạ như người ta bắn chim Sẻ. Xác họ chìm sâu trong lòng
đại dương. Ít lâu sau trong cơn hoảng
loạn vì hệ thống cộng sản Đông Âu lần lượt xụp đổ, Liên Xô lúc đó đang hấp hối
bên bờ vực thẳm tan rã, đất nước rơi vào thế cực kỳ nguy ngập “Chân
không đến đất – Cật chẳng đến giời”. Với não trạng của những con tốt bị bỏ rơi cùng
đường “Đi với Mỹ sẽ mất đảng – Đi với
Trung Quốc sẽ mất nước”, nhưng “THÀ MẤT NƯỚC CÒN HƠN LÀ MẤT ĐẢNG”
(NVL)…ĐCS Việt Nam đã nhanh chóng chọn giải pháp quỳ gối trước Trung Quốc, kẻ
thù truyền kiếp bằng thỏa ước Thành Đô 9/1990.
Có thể nói, cùng với công hàm 1958 của
Phạm Văn Đồng, thỏa hiệp Thành Đô 1990 …là những dẫn chứng sinh động nhất cho
tội lỗi tầy trời của ĐCS Việt Nam, khi họ tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc
mở ra “Một thời kỳ Bắc Thuộc mới” như lời cảnh báo của cố bộ trưởng
ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Từ đó đến nay, ĐCS Việt Nam vẫn mê lú, hy vọng
Trung Quốc sẽ thay Liên Xô trong sứ mạng nhuộm đỏ cả hoàn cầu này, ĐCS Việt Nam
sẽ được Trung Quốc cưu mang… BLĐ Việt Nam cố tình bắt dân tộc phải lãng
quên những đau đớn đã đến vì người Trung Quốc. Ai mà nhắc đến Hoàng Sa 1974,
chiến tranh biên giới 1979, nhắc đến cuộc thảm sát Gạc Ma 1988 sẽ bị coi là những thế lực thù địch.
Là những người tôn thờ triết lý “KHÔNG CÓ LIÊN MINH NÀO LÀ VĨNH VIỄN
– KHÔNG CÓ KẺ THÙ NÀO LÀ VĨNH VIỄN - CHỈ CÓ LỢI ÍCH LÀ VĨNH VIỄN” (The firt America ) người Mỹ không thể cùng đứng mãi bên
VNCH trong vũng lầy của một cuộc tương tàn giữa những người Việt Nam cùng
huyết thống. Người Mĩ quyết định bỏ cuộc trong thế trận ngăn chặn thành công
làn sóng“ĐỎ” không cho lan tràn xuống vùng Đông Nam Á và người Mỹ đã xâm nhập thành công vào Trung Quốc, một thị
trường hơn 1 tỉ dân. Như thế, người Mỹ đâu có trắng tay sau chiến tranh Việt Nam . Nếu
sau ngày 30/4/1975 người Mỹ không vì hối hận mà dang tay đón nhận làn sóng
Thuyền Nhân bỏ xứ ra đi…thì hình ảnh “Hiệp Sĩ Nhân Quyền Mĩ” chắc chắn sẽ
hoen ố, sẽ chẳng ra gì trong con mắt của người Việt Nam. Tôi tin rằng đến nay
nếu phải nhắc lại cuộc chiến tranh đó, nghĩ lại những gì đã xẩy ra trước và trong
ngày 30 / 4 / 1975, người Mỹ chỉ coi đó là những kỷ niệm buồn cùng với những toan
tính, những nước cờ thành công và cả không thành công của họ.
Người dân Đà
Nẵng với tầu sân bay USS Carl Vinson
tháng 3 – 2018.
Điều gọi là “Hội chứng Việt Nam
vẫn còn là bóng ma ám ảnh nước Mỹ”, chỉ là sản phẩm của những kẻ hoang
tưởng và tự sướng mà thôi. Thật khôi
hài, đầu tháng 3 – 2018, tầu sân bay USS Carl Vínson với đoàn tầu hộ tống rất
hùng hậu cùng 6000 lính Mỹ cập cáng Đà Nẵng…trong bối cảnh toàn bộ dàn tứ trụ
triều đình của Việt Nam tránh mặt hết, bỏ mặc khách cùng dân chúng Đã Nẵng hân
hoan hát múa hòa giải “NỐI VÒNG TAY LỚN” tới 5 ngày đêm
liền…Thái độ lảng tránh cựu thù của BLĐ Việt Nam nói lên điều gì? Chiến thắng
30 – 4 hoành tráng đến thế kia mà! Sao bây giờ lãnh đạo ta lại sợ Mỹ sợ Ngụy
đến thế hay sao? Sống trong thời đại @... một học sinh tiểu học nào lúc này cũng
trả lời được: “ĐCS Việt Nam không sợ
Mỹ, càng không sợ Ngụy. Họ chỉ sợ Hoàng Đế Tập Cận Bình…mà thôi”.
Người Trung Quốc cũng đâu có thua thiệt gì
khi họ chơi tới bến con bài Việt Nam đánh Mỹ. Cái lớn lao nhất mà họ đạt được
là hơn 3 thập kỷ sau khi hòa hoãn được với Mỹ nhờ tuyên bố chung Thượng Hải
1972…Trung Quốc từ một nước đói nghèo đã trở thành cường quốc thứ 2 thế giới về
kinh tế. Nếu đem những chiến lợi phẩm khác mà Trung Quốc thu được nhờ chiến
tranh Việt Nam…như Thác Bản Giốc, Ải Chi Lăng, Bãi Tục Lãm, Hoàng Sa, Gạc Ma –
Trường Sa, Bauxite Tây Nguyên, Focmosa, Lee and men, Vũng Áng, hàng triệu ha
rừng thượng nguồn, hàng ngàn dự án ở Việt Nam mà Trung Quốc thắng thầu…cùng
vùng biển của Việt Nam bị Trung Quốc nắm giữ… đem so với số súng đạn, dép dâu ,
mũ cối, lương khô Tầu họ viện trợ cho
Việt nam trong chiến tranh…cú áp phe xương máu người Việt Nam này Trung Quốc lỗ
hay lãi đây thưa các ông Nguyễn Văn Linh, Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười,
Lê Đức Anh, Nguyễn Phú Trọng…những người rước “Thập Lục Kim Tự “ và “Tứ
Hảo” về để tiếp tục ám quẻ đất
nước này.
Hôm nay, trong tay là NQ 36, ngày ngày
tuyên giáo đảng cứ ra rả nói đến hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận thù, mơn trớn gọi
những người năm xưa phải vượt biển tìm tự do là “KHÚC RUỘT NGÀN DẶM”. Trong khi
đó cứ mỗi ngày 30 – 4 hàng năm đến, là một lần họ xát muối vào nỗi đau của “BÊN
THUA CUỘC” qua việc bắt người dân cả
nước hoan hỉ lên đồng coi ngày đó là ngày đánh dấu sự kiện “ĐÁNH CHO MỸ CÚT –
ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO”, cùng với việc tiếp tục bắt bớ, giam cầm những người dân
trong nước dám đấu tranh đòi TỰ DO – DÂN CHỦ - NHÂN QUYỀN một cách ôn hòa. Cách
hành xử phản cảm, khó coi như thế không
biết sẽ còn tiếp diễn đến bao giờ. Theo tôi, ngày 30 – 4 – 1975 chỉ nên đơn
giản hiểu là ngày “TIỀN ĐỒN” của phe cộng sản đánh thắng “TIỀN ĐỒN” của thế giới
tự do và là ngày để người Việt Nam ở cả bên thắng cuộc và bên thua cuộc cùng
lắng lại lòng mình trước những thảm kịch chỉ có lợi cho những kẻ ngoại bang,
những siêu cường mà thôi. Như vậy, ngày 30/4 đâu có xứng đáng là biểu tượng của
sự toàn bích. Cuộc thống nhất đất nước cưỡng bức ngày đó cũng làm xuất hiện
những chia rẽ mới rất đáng tiếc đối với nhiều thế hệ người Việt Nam ở
trong cũng như ngoài nước như điều mà ông Võ Văn Kiệt đã nói : “Triệu
người vui – Triệu người buồn”.
Xin
hỏi những người coi ngày 30 – 4 – 1975 là ngày quốc khánh cho nhà nước CHXHCNVN
thống nhất: Quốc khánh rồi mà khi dàn khoan HD 981 bất ngờ nhẩy vào vùng biển
chủ quyền của Việt Nam, Quốc vụ khanh Dương Khiết Trì dám cất lời kêu gọi xấc
xược giữa Hà Nôi rằng, “Những đứa con hoang đàng... hãy về với nước
mẹ Trung Hoa vĩ đại!”!
Đất nước đã thống nhất được 43 năm mà ngày
30 – 4 vẫn tiếp tục được coi là ngày “Quốc Khánh” đối với “Bên
Thắng Cuôc” và là ngày “Quốc Hận” với “Bên Thua Cuộc” thì con
đường để Việt Nam đi đến hòa hợp hòa giải là không dễ trở thành hiện thực. Ngày
mà người Việt Nam ở trong nước cũng như ngoài nước có được một tiếng nói chung,
một lộ trình chung, một đề án chung để Tổ Quốc Việt Nam hiện diện trong thế
giới nhốn nháo này ở tư thế ngửng cao đầu, xứng tầm với những gì mà dân tộc lẽ
ra phải được khẳng định từ lâu rồi, những gì mà Văn Cao ao ước :“Từ nay người biết yêu người / Từ nay người biết thương người”có lẽ vẫn
còn xa vời lắm. Ngày dân tộc Việt Nam trả xong nghiệp báo còn xa. Chúng
ta vẫn tiếp tục là những kẻ nhỡ chuyến tầu đi về phía DÂN CHỦ.
Cũng
một kiếp người…
Thử hỏi trong lịch sử dân tộc, có giai
đoạn nào, có thời kỳ nào và vì ai mà nguyên khí bị tha hóa, nội lực dân tộc bị
huỷ hoại, suy yếu vì chia rẽ, vì ngờ vực lẫn nhau lại dai dẳng, bi thương, sâu
sắc & nghiêm trọng đến như vậy.Tương lai của dân tộc rồi sẽ ra sao ?
Ai là người có lỗi trước tiền nhân ? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm trước
lịch sử đây ?
Lời cuối :
Có thể lắm, khi đọc bài viết này, sẽ có người
lên án tôi, chỉ vì tôi không suy nghĩ như họ. Tôi chủ trương không tranh biện.
Tôi “KHÔNG…” không phải là tôi không dám, là người luôn cổ xúy cho một đời sống
chính trị ĐA NGUYÊN tôi tôn trọng mọi ý
kiến dị biệt có văn hóa. Viết loạt bài về ngày 30 – 4 này, tôi chỉ có một tham
vọng duy nhất là cung cấp cho người đọc một góc nhìn không giống ai khi nghĩ về
những kiếp nạn mà dân tộc mình phải chịu đựng.
Theo tôi, đã đủ điều kiện để nói: Sau 88
năm ngày ĐCS Việt Nam ra đời, họ đã du nhập vào đất nước này ý thức hệ Mác –
Lê, phiên bản của Stalin – Mao Trạch Đông…, cái thứ vô cùng xa lạ với truyền
thống của dân tộc đó đã biến dân tộc Việt Nam vốn rất năng động, thông minh, quật
cường trước cái ác thành một cộng đồng thoái hóa, bạc nhược, một đàn Cừu chỉ
biết vâng lời. Chúng ta những hậu duệ của nòi giống Rồng Tiên đã bị các thứ ngoại lai đó biến mình thành
những con tốt tầm thường trong những ván bài mà người Việt Nam luôn luôn là
những người thủ bại. Tôi tin sẽ đến ngày dân tộc Việt Nam bừng tỉnh bước ra khỏi những u mê lạc lối và
thế hệ người Việt Nam
trong tương lai sẽ làm hồi sinh lại đất
nước đau thương này. Họ sẽ không bao giờ vướng phải những sai lầm mà các bậc
tiền bối của họ đã không dưới một lần mắc phải./. (Hết)
Ngày giỗ tổ Hùng Vương 4 - 2018
Nguyễn
Thượng Long
- Nguyên giáo viên dậy Địa Lý GD-ĐT Hoà Bình-Hà
Tây
- Nơi ở :Văn la – Phú La – Hà Đông –
Hà Nội.
-
ĐT 0433521066 & 01652323836. Email: nguyenthuonglong571@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét