Hồi Ký Nguyễn Trung (1,2,3)
Vì lợi ích của người
đọc,
xin tôn trọng nguyên bản và
bản quyền của tác giả.
Cũng xin cho phép tôi tại
đây nói lời tri ân với bạn bè chí cốt
đã góp những ý kiến quý báu
cho tập sách nhỏ này.
Bản chính thức
Tôi làm “chính trị” (1)
Những kỉ niệm và trăn trở
Hồi Ký
Nguyễn Trung
Phần một: Vào đời
Phần hai: Kẻ thất bại toàn diện
Phần ba: Suy ngẫm
Kính tặng Cậu Mợ
Khai bút tại
Hà Nội – Võng Thị, ngày 30-04-2018
Phần một
Vào đời
Vào tuổi U90 nhìn lại, tôi
không ngờ cuộc đời mình, trải dài từ những ngày cuối cùng của chiến tranh thế
giới II cho đến hôm nay, được chứng kiến hoặc trải qua rất nhiều sự kiện trọng
đại của thế giới và trong nước mình. Choáng ngợp trước thực tế này, tôi nghĩ
phải cố ghi lại những trải nghiệm và kỷ kiệm khó quên... và ngẫm nghĩ… Mong
được chia sẻ với những ai quan tâm.
…Là một gia đình tiểu công
chức thời Pháp thuộc trong ngành công chính (travaux publiqes – cầu đường, thủy
lợi…), nhưng tôi không hiểu tại sao gia đình bố tôi hồi ấy lại có nhiều người
tham gia cách mạng rất sớm, trong đó 2 em bố tôi tham gia từ trước 1945. Sau
Cách mạng Tháng Tám, hầu hết các anh em và các cháu của bố tôi (bên nội) đều
tham gia kháng chiến, trong số họ có một em và một cháu cùng là đồng môn trường
Bưởi với anh Việt Phương và biết anh (sau này có lần anh Việt Phương nói với
tôi là có biết họ)… Có thể do phong trào học sinh trường Bưởi thời bấy giờ có
tinh thần chống Pháp cao?..
Sinh năm 1935, tuổi tôi đã
được chứng kiến những ngày cuối cùng của chiến tranh thế II trên nước ta, bắt
đầu từ đảo chính 09-03-1945 Nhật lật đổ Pháp, tiếp theo máy bay Mỹ đã vào ném
bom Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi khác, nạn đói 1945… Rồi nhưng ngày sục sôi
của Cách mạng tháng Tám.
Tôi tham gia thiếu nhi Cách
mạng Tháng Tám ngay từ ngày đầu tiên sau khi đi theo đoàn biểu tình của Việt Minh
ngày 19-8-1945 chiếm Khâm sai Bắc Bộ phủ - nơi làm việc của Khâm sai đại thần
Phan Kế Toại. Khoảng một tuần trước ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, gia
đình bố tôi và họ hàng rời thủ đô, tham gia kháng chiến chống Pháp.
Bỏ lại nhà cửa phía sau, lên
rừng vào chiến khu, bọn trẻ chúng tôi chẳng biết gì là nguy hiểm và khổ - có lẽ
đây là điều an ủi lớn nhất đối với người lớn. Chúng tôi thích nghi rất nhanh
với cuộc sống mới trong chiến tranh, và phải tự làm lấy mọi thứ mà ăn, mà ở, mà
sống!.. Tôi chỉ có một kỷ niệm nhỏ: Hôm ấy, mọi người đã lên hết các xe tay để
đi ra bến xe, tôi còn nhảy tọt xuống đất, chạy ngược vào nhà, lục lọi mãi mới
thấy được quyển sách toán – cho các lớp moyen 1, moyen 2 và supérieur mà tôi
rất thích. Tôi vớ mang theo, sau này hóa ra được việc vô cùng.
Vào khoảng năm 1948/1949,
Tuyên Quang bắt đầu có trường trung học Tân Trào, với một lớp đầu tiên gọi là
đệ nhất. Vài năm sau đổi tên, gọi theo hệ thống trung học cấp II và cấp III
(thuộc hệ trung học phổ thông 9 năm). Cha mẹ tôi cho tôi đi học trường này.
Trường xa nhà khoảng 40 km, đi bộ hết một ngày mới tới nơi. Cha mẹ cho tôi
khoảng một chục cân gạo vừa sức đeo trên vai cùng với những hành trang khác, và
một ít tiền đủ sống 1 tháng, hết tháng lại cuốc bộ hai lượt 40 km về nhà xin
tiếp, và cũng là để thăm nhà…
Tại trường thì sống nhờ nhà
dân, theo kiểu góp gạo thổi cơm chung, tham gia mọi việc có thể của chủ nhà, từ
làm việc đồng áng khi rỗi – hồi đó xính dùng danh từ, nên gọi là cùng với chủ
nhả tham gia tăng gia sản xuất, khi xong bài vở thì làm mọi việc khác có thể
giúp chủ nhà, dậy con em chủ nhà học… Suốt những năm học cho đến hết cấp III,
cuộc sống của học sinh chúng tôi đại thể là như vậy, nơi ở nhờ nào cũng được
chủ nhà coi như con cháu họ trong gia đình… Học ở trường vào buổi tối là chính,
vì ban ngày sợ Tây ném bom. Làm bài cũng ban đêm là chính, vì còn phải tham gia
tăng gia sản xuất để có cái góp với chủ nhà mà sống. Đèn học chủ yếu là một cái
đĩa với một ngọn bấc lấy từ ruột cây bấc, thắp bằng dầu ép từ hạt cây sở (gọi
là dầu sở). Sau này có giao lưu buôn bán với vùng địch chiếm nên mới có thêm
loại đèn dầu hỏa (thời đó gọi là dầu tây)… Giấy mực đều thiếu, nhiều khi quá
thiếu… Có những lúc phải tiết kiệm giấy bằng cách các bài nháp cho các môn
toán, lý, hóa hầu như chỉ thực hiện viết trên cát cho bằng xong, cuối cùng mới
chép kết quả vào vở… Thế nhưng, sau này chúng tôi vẫn tự cho mình vào loại học
giỏi, vì khi vào học đại học ở nước ngoài, hầu như tại đâu sinh viên Việt Nam
thế hệ chúng tôi cũng nổi tiếng là học giỏi… Có nguyên nhân trò chăm chỉ, song
quan trọng hơn nhiều là có đội ngũ thầy dạy giỏi – sản phẩm của chủ nghĩa thực
dân Pháp để lại hồi đó, và chương trình học hợp lý. Nếu tôi nhớ không nhầm, cả
trường Tân Trào lúc tôi nhập học không có thầy giáo nào tốt nghiệp một trường
sư phạm nào đó. Các thầy phần lớn là đã học xong tú tài hoặc đang học đại học
rồi CMT8 đến, cá biệt đã có thầy tốt nghiệp đại học…
Suốt cấp II và cấp III
chúng tôi không có chuyện làm bài tập và bài thi theo đáp án như bây giờ. Các
thầy của chúng tôi cũng không có giáo án, mà chỉ dậy theo chương trình, dựa vào
sự chuyên sâu của mình và sự bay bổng của nhiệt tình đối với môn mình giảng
dậy. Phần thời gian thầy trò trong lớp thảo luận hay tranh luận với nhau hầu
như ngang ngửa với phần thời gian nghe giảng và ghi bài. Sách giáo khoa hồi ấy
vô cùng thiếu nên càng phải học theo cách này… Chỉ duy nhất mỗi môn tiếng Pháp
là có tiết mục “récitation” – bài học thuộc lòng, thầy kiểm tra bằng học sinh
đọc thuộc lòng tại lớp – thường là các bài thơ cho học sinh trong chương trình
thời Pháp cũ từ enfantin đến élémentaire mà tôi đã học từ lâu, nhưng lên cấp
III cũng bỏ nốt và bỏ luôn cả môn tiếng Pháp vì không có thầy dậy, và lúc này
cũng có chủ trương bỏ dậy ngoại ngữ này cho nhẹ chương trình.
Tóm lại, có thể nói là
không có nạn học vẹt!..
Hôm nay nhìn nhận lại, tôi
và nhiều bạn bè cùng trang lứa vẫn cho rằng nền giáo dục của nước ta thời kháng
chiến chống pháp có nhiều cái hay hơn bây giờ, hôm nay khó so được! Trường học
của chúng tôi còn là một trung tâm văn hóa của địa phương – nơi phát động hay
truyền bá các phong trào cần thực hiện, vì học sinh có khả năng trợ giúp đắc
lực. Từ vận động sống vệ sinh, tiếp tục chống mù chữ, chống mê tín dị đoan, đến
làm sổ sách thuế nông nghiệp, vân vân… Nghĩa là chúng tôi sống rất gắn bó với
dân sở tại, và cũng được dân sở tại giúp đỡ rất nhiều – như cho đất và cho tre
nứa làm trường, làm hầm trú ẩn, cho nhiều thứ khác…
Trở lại việc tôi thi vào
học đệ nhất trường Tân Trào.
Tôi nhớ, thi nhập học năm
đó có một bài toán và một bài văn. Bài toán tôi làm ngon ơ. Còn bài văn: “Bạn
hãy bình luận câu nói của Engels: Tự do là phải hiểu lẽ tất yếu!”
…Tôi cắn bút có lẽ mất đến
một nửa thời gian làm bài. Những năm sống trong rừng, qua đôi ba quyển sách mỗi
lần bố tôi hay các chú các bác mang theo dọc đường mỗi khi ghé về thăm nhà, tôi
đọc nhờ hoặc đọc lén, nhờ đó hiểu võ vẽ Engels là ai, cả những ông Marx, Lênin,
Stalin, Mao Trạch Đông nữa… Tự do là gì, tôi hiểu ở tuổi của tôi. Lẽ tất yếu là
gì, tôi cũng hiểu ở mức ấy. Nhưng toàn bộ cái mệnh đề Tự do là phải hiểu lẽ tất
yếu! thì lại là câu đố khó với tôi.
Tôi lục lọi trí khôn của
mình… Mô tả thô thiển là thế này: Tôi xé cái mệnh đề này làm 2 phần, suy nghĩ
loay hoay mọi cách chán rồi mà vẫn thấy không ổn. Tôi lại xé thành 3 phần, lấy
cái phần có mỗi chữ “hiểu” làm trục… Đem mọi suy nghĩ ra ghép lên ghép xuống
ngược xuôi các phần này lại theo mọi cách nghĩ hay câu hỏi có thể. Tất cả xoay
quanh cái trục có mỗi một từ “hiểu” này… Cuối cùng tôi lần ra: À, tự do phải có
cái gì đó mới đạt được, đạt được tự do nào đó cũng phải trả cái giá nào đó…
Hiểu được hai vế như thế, tôi tán thêm được vế thứ 3: Phải có cái gì đó để có
thể chọn lấy cái tự do nên chọn hay là mình thích, chứ không nên bất kỳ thứ tự
do nào cũng vơ lấy… Thế là nửa phần giờ còn lai, tôi làm một bài văn ngon lành.
Tôi được nhập học với điểm cao. Nhìn lại, đây đúng là câu chuyện A,B,C của trẻ
con. Nhưng vì là câu chuyện A,B,C của trẻ con, nên nó đi theo tôi suốt đời
người – một dấu ấn đầu tiên không phai…
Quả thật kết quả tôi thu
được cho mình từ bài văn này cứ lớn mãi lên… Càng nhiều tuổi, và hôm nay càng
về già, kết quả này vẫn lớn tiếp cùng tôi theo thời gian… Cái tựa đề bài văn
này theo tôi như hình với bóng, suốt cuộc đời và trong mọi lúc, cho đến hôm
nay… Nhất là mỗi khi tôi gặp việc khó, hoặc phải có một quyết định nào đó cho
một vẫn đề mới lạ… Cuộc sống cũng đúng là: Muốn sống tự do, phải hiểu lẽ tất
yếu!..
…Thấm thía nhất đối với tôi
là: Hiểu cái lẽ tất yếu ở đời này không bao giờ có thể nói là đủ, vì cuộc sống
luôn luôn khôn ngoan hơn mình!.. Trong lòng, không biết bao nhiêu lần tôi cảm
ơn thầm ông thầy ra đề thi này, đến hôm nay tôi chỉ đoán được và không biết
chắc được là thầy nào (đã mất). Đến hôm nay, tôi vẫn mang nặng hàm ơn này… Hồi
ấy đã có thầy cao hứng kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện tranh luận thú vị
trong triết học, thế nào là duy tâm, thế nào là duy vật… Tôi biết ơn sâu sắc
trong lòng, và rất mê cái lối suy nghĩ có lô-gich, có triết lý..: Dậy học là
dậy học trò sống bằng suy nghĩ và trau giồi cho mình cách nghĩ! Tối sẽ tiếp tục
tự dậy mình như thế hàng ngày…[1]
Tôi nói nền giáo dục nước
ta hôm nay thua hồi kháng chiến chống Pháp, trước hết có lẽ vì tôi có trải
nghiệm này!
Xin các nhà giáo và các bậc
phụ huynh thử làm một trắc nghiệm: Đem các bộ sách giáo khoa về các môn khoa
học xã hội hiện đang giảng dậy trong trường cùng với cách dậy học hiện hành đem
ra so sánh với cái tựa đề thi này và cách chúng tôi được học thời kháng chiến
chống Pháp!
…
Đầu năm 1953, một số học
sinh lớp lớn nhất của trường chúng tôi được tuyển chọn rất kỹ lưỡng, để cử đi
tham gia chiến dịch đánh Pháp… Bọn tôi sướng lắm, song không biết cụ thể là sẽ
được làm gì. Nhanh chóng chúng tôi được tập kết tại một địa điểm, bí mật tuyệt
đối và cấp tốc.
Tôi không kịp và cũng không
được từ biệt bố mẹ và mối tình đầu tiên của tôi trong tuổi học sinh!
Sau mấy buổi hành quân toàn
vào ban đêm, đoàn vượt qua sông Thao tại bến đò Âu Lâu gần thị xã Yên Bái – cửa
ngõ đi vào Tây Bắc. Còn đang ngủ lúc sáng thì bị một trận bom tơi bời trên đầu,
có một số thương vong trong dân địa phương và trong những đoàn dân công đang
trú tại đây trên đường vào Tây Bắc. Trời phù hộ, đoàn chúng tôi không ai bị làm
sao, nhưng cháy mất một số ba-lô quần áo, chúng tôi san xẻ lại quần áo cho
nhau…
Trên đường đi tiếp, chúng
tôi mới được phổ biến là tham gia chiến dịch Tây Bắc, thuộc đơn vị Tổng cục hậu
cần do tướng Trần Đăng Ninh chỉ huy. Nhiệm vụ của chúng tôi là phục vụ về mặt
tổ chức và sổ sách của các đơn vị hậu cần, được Tổng cục tổ chức thành các trạm
vận chuyển lương thực và quân nhu trên các tuyến dẫn đến mặt trận.
Cuộc sống ngày đêm với bom
đạn ác liệt trên trời ném xuống bắt đầu. Công việc đang tiến hành được vài
tháng, Pháp đột nhiên đưa đại quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, quyết biến
trọng điểm này thành một quả đấm thép, nhằm đánh tan các lực lượng của ta trên
toàn chiến trường Tây Bắc. Chiến dịch chúng tôi đi phục vụ trở thành chiến dịch
Điện Biên Phủ, bom đạn giặc triệt phá các mạch sống của quân ta ác liệt gấp
bội… Chúng tôi được vinh dự tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ đến ngày toàn
thắng: Quân Pháp đầu hàng tháng 5-1954.
Có thể nói, tôi đã trưởng
thành kinh qua chiến dịch này, với lòng biết ơn vô hạn đất nước và cuộc đời đã
ban cho tôi vinh dự này! Qua chiến dịch này, tôi bắt đầu hiểu, được trải
nghiệm, và được tự mình kiểm nghiệm quyết liệt chính bản thân mình thế nào là
sống hết mình vì đất nước, càng yêu và càng vô cùng tự hào về đất nước mình!..
Niềm vui không trọn vẹn,
trên đường trở ra khỏi mặt trận, họa sỹ Tô Ngọc Vân bị máy bay ném bom Pháp
giết tại đèo Lũng Lô. Đoàn của ông đi trước đoàn của chúng tôi khoảng chục cây
số… Buồn vì họa sỹ mà chúng tôi yêu mến không còn nữa. Mãi về sau, khi kể nỗi
buồn này với bố, tôi mới biết bố tôi là một trong những cán bộ kỹ thuật đầu
tiên cùng với những sỹ quan công binh đã khám phá ra và thiết kế đường qua đèo
Lũng Lô thời kỳ chuẩn bị chiến dịch…
…
Sau chiến dịch Điện Biên
Phủ, tôi được điều động tham gia công tác tiếp quản Thủ Đô Hà Nội, được giao
phụ trách phố Sinh Từ. Loanh quanh thế nào 11 năm sau tôi lại là rể của phố
này. Sau này, đôi lúc trêu vợ mình, tôi nói: Hồi tiếp quản, loại bé con như vợ
tôi không bao giờ được tôi để ý!.. Thế là được ăn vài cái đấm.
Tháng 12-1954 xong nhiệm vụ
tiếp quản, tôi được điều về Bộ Ngoại Giao, lý do đơn giản là võ vẽ được vài câu
ngoại ngữ, được tuyển về để làm nhiệm vụ bưng bê phục vụ Phái đoàn của Ủy ban
quốc tế về thi hành Hiệp định Genève 1954 về Đông Dương. Được vài tháng, đầu
năm 1955 tôi được Bộ điều động đi tham gia công tác giảm tô đợt VII, rồi tham
gia công tác cải cách ruộng đất đợt V, rồi lại được phái đi làm công tác sửa
sai ngay trong toàn 5 xã của huyện Trực Ninh / Nam Định, địa bàn của cụm của
tôi đã tiến hành CCRĐ.
Lý do tôi được Bộ cử đi
tham gia giảm tô và cải cách ruộng đất là để rèn luyện phẩm chất chính trị cách
mạng! Hồi đó, cũng vì mục đích rèn luyện này, Bộ còn giao cho tôi nhiệm vụ giúp
anh Nguyễn Mỹ Điền cùng tham gia cuộc cải cách động trời này để hòa nhập cuộc
sống trong nước. Anh Mỹ Điền là một trí thức Việt kiều, hăng hái tự nguyện về
giúp nước cuối năm 1954, làm giảng viên tiếng Anh của Bộ Ngoại giao. Sau này
người ta nói cái chủ trương rèn luyện kiểu này đối với cán bộ tiểu tư sản hay
trí thức như vậy là ăn phải cái bả của Tầu! Có lẽ đúng như vậy.
Ngày đầu tiên chúng tôi
được đưa về xã Trực Đạo. Tôi được phân công sống “3 cùng” trong một gia đình
nông dân nghèo nhất xóm, chủ gia đình là một bà lão gần như lòa vì nghèo khổ và
ốm đau. Nhà có đến 4 miệng ăn mà nhìn đâu cũng không thấy một thứ của nả gì
đáng giá. Bồ bịch cái đựng gạo, cái đựng cám hay ngô khoai gì đó, cái nào cũng
rỗng tuếch. Tôi đưa bao gạo cán bộ của mình cho gia đình, nấu cả nhà ăn được
khoảng vài ba ngày là hết sạch, thậm chí khoai để ăn độn cũng hết… Sang ngày
tiếp theo, đến bữa ăn, lần đầu tiên trong đời tôi được ăn một thứ cháo lõng
bõng nấu bằng một nhúm tấm, còn lại là cám cho lợn ăn là chủ yếu!.. Mảy trấu
của cám không được xảy kỹ, nên cháo khó nuốt vô cùng!.. Tôi chỉ và lấy lệ vài
thìa cho chủ nhà khỏi phật lòng, bấm bụng chịu đói, chờ đến tối đi họp đội rồi
sẽ tính… Lường trước được chuyện này, ngay ngày đầu tiên về làng tôi đã phát
hiện ra một quán nước của làng. Tôi dặn vào tai bà chủ quán, bất kể trong ngày
bà bán cái gì, còn hàng hay hết hàng, song cố để dành cho chúng tôi đến tối
khuya 2 xuất, thứ gì cũng được, miễn là ăn được cho đỡ đói, dù là củ khoai, bát
canh bánh đa, xôi, lạc luộc… Tối tối sau khi đi họp đội về chúng tôi tạt vào
ăn.., bà chủ quán giữ bí mật cho chúng tôi… Anh Mỹ Điền tối nào cũng được tôi
dắt đi ăn vụng như thế… Đôi khi còn đặt hàng với bà chủ quán món gì đó có thể,
để cải thiện bữa ăn một chút, nếu không thì gục mất… Có lẽ chỉ sang đến tuần
thứ 3, anh Mỹ Điền và tôi thống nhất với nhau phải báo cáo với Bộ triệu tập anh
về, vì anh Mỹ Điền không thể trụ nổi!..
Còn tôi thuộc diện phải thử
thách nên không dám ho he gì…
Hơn hai năm trời lăn lộn
với công việc giảm tô, tiếp theo là cải cách ruộng đất, và sau đó đi sửa sai.
Có thể nói tôi biết từ A đến Z toàn bộ câu chuyện bi thương này, vì sao nó xảy
ra, hậu quả như thế nào, tổn thất sinh mạng và lòng người không gì có thể lấy
lại được – một vết thương gây ra cho đất nước không thể tha thứ được! Ngay xã
Trực Đạo nơi đội tôi về đầu tiên, đã có một bí thư chi bộ kiêm xã đội trưởng
thời kháng chiến bị xử bắn vì bị quy là địa chủ và là Việt Nam Quốc Dân Đảng
phản động (mãi sau này được sửa là bần nông và được truy phong danh hiệu anh
hùng lực lượng vũ trang…)[2], vài vụ
tự tử, vài vụ bức tử, những cuộc đấu tố con tố cha, cháu tố ông bà…
Tôi thuộc loại có trình độ
văn hóa của đội, không phải là đảng viên, được xem là phần tử tiểu tư sản, cần
tham gia cuộc vận động này để học tập và tự cải tạo để tiến bộ - giới thiệu của
Bộ nói rõ như vậy với Đoàn CCRĐ. Vì thế tôi được phân công nhiệm vụ làm thư ký
chuyên nghiệp cho đội ngay từ đầu, sau đó là cho cụm - một công cụ để cho đội
và cụm sai bảo… Làm báo cáo hàng ngày cho đội và cho cụm viết mỏi tay, nên hầu
như không có gì là không biết. Cả những chuyện anh đội này chị đội kia hủ
hóa với nhau…
Có một chuyện bi hài: Một anh
cán bộ cụm (phụ trách các đội CCRĐ tại các xã trong toàn huyện) năng nổ, hét ra
lửa, thế nào lai ăn nằm có mang với một bà nông dân nạ dòng, hơn anh ta dăm ba
tuổi (nói là góa chồng, dân làng thì bảo là chồng bà ta đi lính cho Pháp bị
giết hay là đã bỏ đi Nam sau 1954 gì đó... - địa phương này là vùng địch hậu
nên nhiều người đi lính như thế cho Pháp, đây là chuyện bình thường). Anh ta
cãi với tổ chức là không phải là hủ hóa, mà là có ý định xây dựng gia đình, chỉ
mắc khuyết điểm là ăn cơm trước kẻng thôi… Có thể là nội bộ tổ chức chơi khăm
nhau, quyết ngay: Đã định xây dựng gia đình thì phải tổ chức cưới luôn, để khỏi
mất uy tín với dân làng!.. Thế là đám cưới theo kiểu đời sống mới được tổ chức
cấp tốc. Chuyện ê chề biến tướng thành niềm vinh dự của làng… Tôi thì đoán thầm
chú rể chắc đau lắm, có khi còn hơn cả bị thiến!..
…Càng biết nhiều càng sợ.
Khác ý một tý với đội trưởng, cụm trưởng, anh chị đội.., có thể bị quy kết chết
liền… Một số gia đình nông dân trong xã có người làm cán bộ ở những tỉnh khác,
nơi khác, gia đình bị oan nhưng tuyệt đối không dám gọi người thân của mình về
cứu… Hoành hành của những bộ não anh đội chị đội nhiệt tình cách mạng nhưng ngu
dốt, nên nhiều khi ác đến mức dã man, vô văn hóa… Tôi thấm thía: Quyền lực của
sự ngu dốt và nhiệt tình cách mạng có thể trở nên rất tàn bạo![3] Nhưng
những năm tháng này tôi phải học tập rèn luyện cho mình lập trường giai cấp,
nên câm bặt, làm việc như một cái máy, và sống cũng như một cái máy: nghĩa là
không bày tỏ cảm xúc, song hoàn toàn có thể thầm lặng để cố xem cho kỹ tấn trò
đời..!
Sau cải cách ruộng đất đợt
V, khoảng từ tháng 6-1956 trở đi, các cán bộ của Bộ tôi lục tục được gọi trở về
Hà Nội tất cả rồi. Riêng tôi vẫn chết dí ở Trực Ninh, không thấy Bộ nhắc
tới.
Vào lúc này trên chủ trương
phải cấp tốc tiến hành sửa sai ở tất cả các địa phương đã tiến hành CCRĐ khắp
miền Bắc. Các anh các chị đội thường kiếm cớ xin trở về địa phương cũ nơi mình
ra đi, thật ra là trốn sạch, hoặc xin đi sửa sai ở huyện khác, tỉnh khác. Bởi
vì vác mặt đi sửa sai ở những xã mình tiến hành cải cách, hầu như chắc chắn sẽ
bị nông dân cho ăn đòn, không chết thì cũng hết sống!..
Chẳng hiểu tại sao, tôi lại
được phân công đi sửa sai ngay tại cái huyện đã nhẵn mặt tôi. Thực lòng tôi
cũng rất run, nhưng huyện nói: Anh nắm được mọi vấn đề trong huyện, lại không
có ân oán gì với bà con, nên cố chịu khó giúp huyện chúng tôi, bây giờ trong
tỉnh chỗ nào cũng phải sửa sai nên không đủ người (sự thật có thể là chẳng ai
dại gì hay hứng thú gì đi làm cái việc oái oăm này!)… Một mình tôi và hai hoặc
ba người của từng xã làm việc sửa sai này trong từng xã, cứ như thế lần lượt xã
này đến xã khác, làm xong đến đâu báo cáo huyện đến đấy, mãi cho đến đầu năm
1957... Nội dung sửa sai là vãn hồi mối quan hệ làng xã đã bị CCRĐ phá vỡ, ổn
định tình hình trong xã và đời sống của dân, ghi lại các vụ việc hay những vấn
đề tồn đọng lớn và những oan trái lớn để giúp huyện có đủ hồ sơ xin chủ trương
của trên giải quyết dần sau này…
Công việc sửa sai 5 xã của
huyện giao cho tôi được thực hiện suôn xẻ, tình hình của huyện dịu hẳn. Nhưng
tôi ốm kiệt xác, gần như sắp chết, vì quá vất vả, một số di chứng bệnh sốt rét
liên quan đến gan và dạ dày lại tái phát… Song vẫn chẳng thấy Bộ gọi về. Mẹ tôi
từ Hà Nội xuống thăm, thấy con mình như vậy đau lòng quá. Quay về đến Hà Nội,
bà chạy thẳng vào Vụ Tổ chức cán bộ, chất vấn tại sao con bà không được Bộ gọi
về!
Lúc này Vụ tổ chức cán bộ
mới tá hỏa: Trong danh sách gọi cán bộ đi cải cách về, thiếu tên tôi!
…
Nói thêm đôi điều về
CCRĐ.
Cách đây khoảng 7 - 8 năm
gì đó, trong khi nằm chữa bệnh tại bệnh viện Hữu nghị, tôi được ở cùng phòng
với một bệnh nhân tên là Khái, hơn tôi khoảng dăm tuổi, nếu tôi nhớ không nhầm,
họ là Đào. Nằm trong bệnh viện vài tuần, song hai chúng tôi xoắn lấy nhau về
những chuyện ngày xưa…
Thời kháng chiến chống Pháp
ông Khái là bí thư huyện ủy kiêm huyện đội trưởng huyện Yên Lạc, đánh giặc tơi
bời và lừng lẫy một vùng. Hình như suốt thời gian kháng chiến chưa một lần nào
Pháp có thể trọn vẹn chiếm được huyện này lấy một ngày!.. Song danh sách cán bộ
và chiến sỹ của huyện đã hy sinh rất dài… Thế nhưng trong CCRĐ ông Khái bị quy
là địa chủ kiêm Quốc Dân Đảng (rất lạ là trong CCRĐ chỗ nào cũng có Việt Nam
Quốc dân đảng!) phạm tội phản động và chiếm đoạt các chức vụ đầu não của huyện
để giúp giặc… Bố ông Khái oan ức quá, treo cổ tự tử… Gia đình ông Khái tan nát…
Sự thật là cán bộ đầu não của huyện thời kháng chiến bị hy sinh nhiều quá, có những
lúc ông Khái phải kiêm nào là bí thư huyện ủy, nào là chủ tịch huyện, huyện đội
trưởng… Ông Khái bị đội CCRĐ khép tội đại phản động, chiếm đoạt các chức vụ
quan trọng trong kháng chiến, thuộc diện tử tù rất nguy hiểm, chờ ngày xử tử…
Đội giam ông ở xã bằng cách đục hai cái lỗ ở chân tường để gông 2 chân ông ở
phía bên kia tường, song vẫn chưa yên tâm. Sợ không đủ lực lượng canh giữ, đội
đề nghị với trên phải chuyển ông lên trại giam đặc biệt của huyện…
Chuyện đấu tố và nhục hình
đối với ông không thể kể siết. Ông nói thều thào với tôi – vì bị mấy anh chị
đội và nông dân tham gia đấu tố đánh gãy mất mấy cái răng:
- Đầu hàng cái lũ mất dậy
này thì không bao giờ! Song chỉ mong chúng nó giết mình thật sớm!..
Trên đường giải ông từ nơi
giam ở huyện về xã để đưa ra pháp trường, sẽ tổ chức đấu tố lần cuối rồi xử
bắn, có một lệnh hỏa tốc đuổi theo, phát đi từ Trung ương, gửi tất cả các địa
phương khắp mền Bắc:Dừng ngay tất cả các vụ xử án tử hình trong CCRĐ!
Ông Khái thoát chết. Sau đó
được đưa ngay về khu an dưỡng để hồi phục sức khỏe.
Ít lâu sau nữa ông được tập
kết về khu nhà nghỉ ở Hồ Tây, tất cả có lẽ tới trăm người, đại thể là những
thân phận na ná như ông Khái – dù là chức vụ và thuộc các vùng miền khác nhau
như thế nào, hình như không thấy có nữ, ông Khái bảo thế, ông không nhớ
rõ...
Đấy là cuộc họp do Trung
ương triệu tập, để xin lỗi các đồng chí cán bộ là nạn nhân, mong họ sớm khỏe
mạnh trở về địa phương mình, giúp hàn gắn vết thương CCRĐ.
Đến giờ, ông Trường Chinh
đích thân mời mọi người sang phòng họp để cuộc họp bắt đầu. Không một ai chịu
làm theo, vì oan ức và tức khí lớn quá… Lần thứ hai, thứ ba cũng vậy… Cuối cùng
khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đến và trực tiếp mời, mọi người mới đứng dậy và đi
sang phòng họp…
Câu chuyện đau lòng này vẫn
tiếp tục xoáy lên trong tâm trí tôi câu hỏi:
- Tại sao cho đến hôm nay,
năm 2018 này, Trung ương ĐCSVN vẫn chưa một lần tiến hành tổng kết rạch ròi sai
lầm CCRĐ để rút kinh nghiệm, để học hỏi, và để công khai xin lỗi cả nước!?
Không làm được như vậy, loại sai lầm nghiêm trọng như thế này sẽ còn tiếp tục
tái diễn! Thực tế đã chứng minh, 43 năm độc lập thống nhất vừa qua, biết bao
nhiêu sai lầm nghiêm trọng lặp đi lặp lại, trong đó có nguyên nhân quan trọng
là không làm cái việc phải làm này!
Trong một số bài viết những
năm qua, cả trong tiểu thuyết “Dòng đời” và tiểu thuyết “Lũ”, tôi đã nhiều lần
nhắc lại câu hỏi này… Chắc chắn đất nước sẽ còn lận đận tiếp vì căn bệnh
này!
Suy nghĩ như trên, nên tôi
không tán thành tiểu thuyết “Ba người khác” ngay từ khi nó ra mắt bạn đọc. Anh
Tô Hoài chỉ dồn mọi hư hỏng và tội lỗi trong CCRĐ cho những yếu kém của các anh
đội chị đội. Hình như anh muốn tránh đụng chạm đến cái gốc của vấn đề: Sai lầm
xuất phát từ những người lãnh đạo và đường lối chính sách, các anh đội chị đội
chỉ là những phương tiện, phần nào là nạn nhân nữa. Viết như trong “Ba người
khác” chỉ nêu lên được một phần sự thật, mà lại là phần ngọn. Không viết ra cả
sự thật như thế, an toàn cho anh Tô Hoài, nhưng lại không an toàn cho đất
nước!.. Song cũng phải nói, có viết như thế sách mới xuất bản được!
Thật là một kỷ niệm
buồn!..
…
Đầu năm 1957, cuối cùng thì
Bộ Ngoại giao cũng gọi tôi về. Song tôi xa Bộ lâu quá rồi – khoảng 2 năm hơn
một chút, nên Bộ không biết bố trí cho công tác gì bây giờ… Chính tôi cũng cảm
thấy mình lạc lõng trong Bộ…
May quá, đúng lúc này Bộ có
mấy xuất đi học ở CHDC Đức và cũng đang thiếu tiếng Đức, thế là Bộ “đền” tôi
bằng cách cho đi học Văn học Đức, tại trường Đại học Karl Marx – [sau khi bức
tường Berlin đổ, trường này trở lại tên cũ là Trường Đại học Leipzig, một
trường phái học thuật nổi tiếng một thời… Đấy là cái may đầu tiên lớn nhất
trong đời tôi – trời cho!
Xin nói ngay, đi học như
thế là đổi đời!.. Tôi chịu ơn nước Đức nhiều lắm, coi đấy là quê hương thứ hai
của mình. Lý do: Nhân cách và hiểu biết của tôi có phần tác thành rất quan
trọng từ những gì tôi học được trong ghế nhà trường hay trong cuộc sống xã hội
của quốc gia này – bao gồm cả những gì dành cho tôi của 2 nước Đức đã thống
nhất lại với nhau năm 1989 – nơi có một phong trào tuyệt vời, mạnh mẽ, bền bỉ
của nhân dân khắp các miền 2 nước Đức ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của chúng ta – cả về vật chất và tinh thần. Tôi chia đôi thời gian của mình,
một nửa dành cho nhà trường, một nửa học trong đời. Hôm nay nhìn lại, tôi thấy
sử dụng thời gian như vậy là hợp lý, ý chí dấn thân có được chỗ dựa cho sự tự
tin của bản thân. Dám sống và dấn thân là điều tôi luôn luôn tự nhắc nhở mình
lúc trai trẻ. Càng về sau này tôi càng hiểu, thiếu lòng tự tin này, chắc tôi sẽ
chẳng dám làm gì!
[Xin lưu ý cho, cả thế giới
biết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta do ĐCSVN lãnh đạo. Cho
đến nay, có lẽ đấy là cuộc kháng chiến của một quốc gia được sự ủng hộ rộng rãi
nhất của nhân loại tiến bộ, trước hết và chủ yếu bởi tính chính nghĩa chống
ngoại xâm của nó. Xin hiểu đúng điều cốt lõi này cho đất nước hôm nay và mai
sau. Sự ủng hộ này của mặt trận nhân dân thế giới không mảy may liên quan đến
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và trên thế giới! Sự ủng hộ như vậy của mặt trận
nhân dân thế giới là một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên thắng lợi
của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sự việc ngang nhiên xâm phạm chủ
quyền và luật pháp nước Đức để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh không thể nào bào chữa
được, xâm phạm lợi ích quốc gia của bạn và quan hệ quốc tế, - cho dù nội tình
Việt Nam có những vấn đề nan giải đến thế nào đi nữa! Nhất thiết phải tìm cách
khắc phục sai lầm nghiêm trọng này! Đành rằng chuyện “bắt cóc” như thế các
cường quốc đều làm, nhưng xin nhớ cho Việt Nam chưa bao giờ là cường quốc, lại
ở vào cái thế không được phép biến bạn thành thù! Hơn nữa phải học hỏi cái văn
minh, chứ không nên bắt chước cái dã man làm gì!]
Xin kể một chi tiết ngoài
lề, những năm tôi học và làm việc ở CHDCĐ có một hiện tượng lạ: Chức vụ Bộ
trưởng Bộ Văn hóa lại là một chức vụ rất khó của nhà nước CHDCĐ. Bộ trưởng của
Bộ này cứ bị thay xoành xoạch, mặc dù hầu hết đấy là những nhân vật văn hóa có
tên tuổi và uy tín cao trong xã hội, đều có học hàm học vị cao (ở CHDCĐ không chuyện
“bằng giả”), chức vụ của họ trong lãnh đạo ĐXHTN Đức cũng rất cao...
Lý do: Văn hóa thực sự là
một mặt trận chính trị quyết liệt không đội trời chung giữa 2 chế độ chính trị
khác nhau của 2 nước Đức! Có lần tổng bí thư Erich Honecker nói với lãnh đạo
Việt Nam: “Kẻ thù giai cấp của chúng tôi len vào trong từng phòng ngủ mỗi gia
đình!” (chương trình TV của Tây Đức thời đó). Trong cuộc đấu tranh này, phần
yếu luôn luôn nghiêng về phía CHDCĐ, hệ quả sát sườn nhất là bệnh kinh niên
chảy máu chất xám, chưa kể những hệ quả tiêu cực khác... Thực tế này làm thiếu
hụt nặng nề cán bộ chuyên môn mọi lĩnh vực, đến nỗi ngay cả bệnh viện chăm sóc
sức khỏe cho lãnh đạo quốc gia và đoàn ngoại giao cũng phải mời từ các nước
LXĐÂ sang, vì thiếu… Sự kiện bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 bắt rễ sâu xa từ
những năm tháng này. Thực tế quyết liệt này ngấm vào tôi khá sớm tính chất
quyết liệt của mặt trận văn hóa trong đời sống một quốc gia.
Lúc còn trẻ ở nhà, tôi được
học rất nhiều về câu hỏi “Ai thắng ai?” giữa CNXH và CNĐQ. Gần 15 năm cả học và
làm việc ở 2 nước Đức (trong đó 3 năm cuối cùng là ở 1 nước Đức thống nhất,
Bonn), tôi thấy câu trả lời cứ lừng lững đến từ cuộc sống thực tại không thể
cưỡng lại được, và cuối cùng là sự kiện bức tường Berlin sụp đổ. Thực tế này càng
thôi thúc tôi phải có thái độ khách quan nghiêm túc để xem xét mọi sự
vật.
Còn một chi tiết nữa, công
tác nghiên cứu lý luận và tuyên giáo của ĐXHTNĐức rất nghiêm túc, sáng tạo,
chuyên sâu, lý lẽ phải nói là rất kinh điển và uyên thâm trên nền tảng triết
học, chất lượng khoa học cao theo quan điểm Marxist… Chất lượng công tác này có
thể liệt vào bậc nhất trong phe xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề Liên Xô cũng
phải suy ngẫm và tham khảo. CHDCĐ có đội ngũ tuyên giáo báo chí đông đảo, chất
lượng chính trị và tay nghề cao. Chúng tôi, những người đã từng gắn bó nhiều
năm với cả 2 nước Đức, thường gọi hiện tượng “kỹ lưỡng” này là “đặc tính Đức”.
Nghĩa là làm việc gì, dù là theo nhân sinh quan nào, ở CHDCĐ đều được làm rất
có hệ thống, bài bản và nghiêm túc. Nước ta đã cử nhiều đoàn sang học tập kinh
nghiệm của bạn – nhưng hầu như không học được bao nhiều, hoặc học không nổi –
vì quá tầm và quá khác nhau về hoàn cảnh, trình độ… Lưu trữ của Đức hiện nay
vẫn còn đầy đủ để khảo cứu. Xin nói ngay đội ngũ tuyên giáo của nước ta hôm nay
không thể so sánh được với họ hầu như trên mọi phương diện chất lượng và đạo
đức nghề nghiệp.
Song quan trọng hơn cả cái
đặc tính Đức nói trên, CHDCĐ có một đòi hỏi mất / còn đối với sự tồn tại của
chính quốc gia này: Phải xây dựng bằng được cả nền tảng tinh thần, tư tưởng, lý
luận, văn hóa làm đạo lý cho sự tồn tại của CHDCĐ với tính cách là một quốc gia
của một dân tộc Đức mới, cũng có khi lãnh đạo bạn nói là “quốc gia của dân tộc
Đức XHCN” (Der Staat der sozialistischen deutschen Nation” – “der Staat” ở đây
được CHDCĐ hiểu là quốc gia - “nationaler Staat”, không phải là nhà nước),
quyết bứt ra khỏi dĩ vãng của nước Đức quốc xã, và quyết song song tồn tại với
CHLBĐ của chủ nghĩa đế quốc. Có thể nói đây là sự cọ sát có tình đối kháng quyết
liệt và toàn diện nhất giữa 2 thế giới khác nhau trong lòng một quốc gia. Một
sự chạy đua, ganh đua, quyết hạ gục nhau trên mọi phương diện! Với tất cả quyết
tâm, ý thức tỉnh táo, và ý chí quyết liệt nhất của cả 2 bên! Không phải ngẫu
nhiên CNXH ở CHDCĐ phát triển cao nhất trong phe XHCN, được coi là “tủ kính của
CNXH”!
Song một bên đi con đường
thuận theo sự phát triển của tự nhiên, một bên theo con đường tuy rất lý tưởng
và lãng mạn nhưng duy ý chí cưỡng lại tự nhiên.
Và đúng với quy luật vận
động của sự vật khách quan: Duy ý chí đã thất bại.
Cái duy ý chí xây dựng chủ
nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin mới chỉ là một vế thôi, trước sau kiểu gì
cũng thất bại, chứng minh rất thuyết phục: Lấy chủ nghĩa xã hội làm phương tiện
bằng cách dựng nên một nhà nước của chuyên chính vô sản để thực hiện những cái
đích của chủ nghĩa này là thảm họa.
Nhưng cái duy ý chí chia
đôi dân tộc Đức, để qua đó hy vọng có một bộ phận sẽ hình thành nên “một dân
tộc Đức mới XHCN” thì nhân dân cả 2 miền nước Đức không bao giờ chấp nhận,
nghĩa là không khả thi ngay từ lúc CHDCĐ ra đời.
Vì vậy, CHDCĐ phải sụp đổ
là tất yếu, một sự thất bại của duy ý chí kép!
Vì những lẽ trên, cho phép
tôi tại đây chia sẻ thế này: CHDCĐ là ví dụ hoàn hảo nhất chứng minh sự thất
bại tất yếu của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một mô hình thế chế chính
trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của một quốc gia thiết kế theo chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Vì thế, nói: “ở nước ta độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội!” cũng có nghĩa là bắt độc lập dân tộc của
nước ta phải gắn với một chủ nghĩa đã phá sản! Hậu quả đất nước đã và đang phải
tiếp tục trả giá suốt 43 năm qua là lẽ tất yếu: Theo mô hình này, chế độ toàn
trị được củng cố, nhưng đất nước lụn bại.
Ngày nay, chỉ có các giá
trị mang tính xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục tồn tại trong kho tàng văn minh
nhân loại, nằm trong những nét đẹp hướng thiện, trở thành những giá trị góp
phần tạo thành một bộ phận nhất định của văn minh nhân loại. Đấy là những thành
quả của sự phấn đấu, hoàn toàn không phải là “chủ nghĩa”, càng không phải là
phương tiện! Đương nhiên văn minh nhân loại không chỉ giới hạn lại trong những
giá trị như thế, còn rất nhiều giá trị khác nữa!
…
…
Tôi công tác ở Bộ Ngoại
giao, như thế là từ tháng 12-1954 đến đầu năm 1993.
Loại trừ 7 năm đại học ở
CHDC Đức từ 1957 đến 1964 – trong đó có 1 năm Bộ Ngoại giao yêu cầu tôi tạm
dừng học giữa chừng để làm phiên dịch cho đại sứ quán ta rồi học tiếp, thời
gian công tác ở Bộ như thế là liên tục. Bắt đầu từ công việc bưng bê phục vụ
phái đoàn IC về Hiệp định Geneva 1954 ở Hà Nội, đến chức vụ cuối cùng là đại sứ
tại Thái Lan…
Tôi không được trải qua bất
kể một khóa đào tạo chuyên ngành nào về ngoại giao, đơn giản vì điều kiện công
tác không cho phép. Song công việc ngoại giao của tôi bắt đầu từ phiên dịch,
đến công tác nghiên cứu, lần lượt trải qua đủ các hàm ngoại giao khi ở nước
ngoài, làm đủ các nhiệm vụ quản lý đơn vị từ phòng đến vụ ở trong Bộ - đấy là
cả một trường đời vô giá đối với tôi. Nói gọn: toàn bộ sự nghiệp của tôi khoảng
gần 4 thập kỷ ở ngành giao là làm việc và học thường xuyên trong khi làm
việc.
Tôi thật sự là chính tôi
chỉ từ khi tôi đảm nhiệm những chức vụ quản lý khác nhau trong Bộ hay ở nước
ngoài. Trước đó ở những nhiệm vụ khác, tôi chỉ là người học việc và người thừa
hành.
Cái vốn lớn nhất của tôi
trong nghề là ý chí làm việc và học trong khi làm việc không lúc nào dừng, học
bất kể cái gì mà công việc đòi hỏi, ngoại ngữ là chìa khóa.
Cái nền của ý chí làm việc
và học hỏi này là vốn sống của suốt cuộc đời, được nâng cánh ở mức độ nhất định
nhờ sự giúp đỡ của lối tư duy triết học – để hiểu và để phân tích sự vật – mà
tôi đã hấp thụ được phần nào trong nhà trường và trong cuộc đời; nhờ đó tôi
luôn có ý thức cố tránh cách suy nghĩ duy tâm, duy ý chí hoặc cảm tính, luôn cố
tự phán xét mình...
Kinh nghiệm cụ thể của tôi
xin kể lể ra là như vậy.
Còn như nói chung chung là
tôi yêu nước và có tinh thần phấn đấu cao… v… v… chắc không có ích gì cho bạn
đọc, vì trong chúng ta ai mà chẳng như vậy!?..
Về nhiệm vụ quản lý:
- Trong Bộ, tôi đã qua các
chức vụ trưởng phòng, vụ trưởng vụ kinh tế (hình như là hai lần, một là vụ
trưởng vụ kinh tế đối ngoại, một là vụ trưởng vụ kinh tế tổng hợp), vu trưởng
vụ Châu Á 2, Chánh văn phòng Bộ.
- Ở nước ngoài tôi đã làm
các nhiệm vụ: Đại biện lâm thời của Việt Nam tại CHLBĐ sau 30-04-1975 kiêm Thụy
Sỹ, tiếp quản ĐSQ CHVN và thành lập ĐSQ CHXHCNVN tại CHLBĐức, quyền đại sứ ở
Australia, sau cùng là đại sứ ở Thái Lan.
- Kết thúc nhiệm vụ đại sứ
ở Thái Lan, tôi được triệu tập sang Văn phòng Chính phủ, đảm nhiệm chức vụ Tổng
thư ký Hội đồng Kinh tế đối ngoại, do Phó thủ tướng Phan Văn Khải làm chủ tịch,
Bộ trưởng Bộ ngoại giao và một số bộ trưởng các Bộ kinh tế là thành viên.
- Được 1 năm, Hội đồng giải
thể, ngay sau đó tôi được Thủ tướng Võ Văn Kiệt mời làm trợ lý cho Thủ
tướng.
- Khoảng giữa năm 1966 tôi
xin từ chức trợ lý Thủ tướng. Nói to tát: Tôi “treo áo từ quan” - nói là treo
“áo”, vì tôi không có “ấn”. Lý do: Liên quan đến bức thư ngày 09-08-1995 của
Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị đề nghị thực hiện những thay đổi lớn và
toàn diện cho đất nước.
- Sau đó tôi tham gia Ban
Nghiên cứu của Thủ tướng cho đến khi Ban này giải thể.
…
[1] Một
kỷ niệm: Một hai năm sau tôi về học tại trường trung học Yên Bái cho gần nhà
hơn. Một hôm nhà trường cho bọn học sinh lớn nhất chúng tôi trong trường biết:
Có ông Trần Văn Giàu về Tuyên Quang nói chuyện kháng chiến và triết học, ai
muốn đi nghe nhà trường sẽ giới thiệu. Thế là đám bọn lớn chúng tôi rủ nhau đem
cơm nắm muối vừng đi ăn đường, màn chiếu và ba-lô để ngủ lại, cuốc bộ một ngày
đi, rồi một ngày về mỗi lượt hơn 40 km, có một thày giáo đi cùng, chỉ để nghe
một buổi tối nói chuyện như thế! Tôi có cảm tưởng sức trai thời đó làm gì cũng
được!
[2] Tôi
đưa chi tiết này vào trong tiểu thuyết “Dòng đời”, xuất bản năm 2006, và tiểu
thuyết “Lũ”, xuất bản 2015..
[3] Hàng
ngày sống với những người này, tôi cứ nhứ đến chuyện ngụ ngôn của Nga về con
gấu: Nó thấy chủ đang ngủ bị ong đốt trên mặt, nó lấy hòn đá to đập con ong nát
bét! Cả muỗi và chủ nó cùng chết!...
Tôi làm “chính trị”
Những kỉ niệm và trăn trở
Hồi ký
Nguyễn Trung
Phần một: Vào đời
2
Những mẩu chuyện nhớ lại
…Trước hết xin nói lên một
vài ý chung chung.
Cuộc đời làm nghề ngoại
giao cho tôi một đặc ân: Được đi nhiều, thấy nhiều, hiểu thiên hạ nhiều hơn, và
do đó tôi cũng hiểu đất nước mình hơn. Đúng là cố nhìn cho xa để biết được
gần!.. Song học phí tôi phải trả là nỗi đau canh cánh khôn nguôi về đất nước
mình – trong đó đau đớn nhất là nỗi bất lực của chính mình![1]
Tôi có 2 món nợ đối với đất
nước, mà tôi biết chắc mình đành mắc lỗi với đất nước, còn sống được ngày nào,
thì ngày đó còn biết là mình chưa có cách gì trả nợ được!
Món nợ thứ nhất: Tôi muốn
tổng kết con đường đất nước đã đi qua từ thời Gia Long đến nay, trong đó đặc
biệt là đoạn trường từ 1930 đến hôm nay. Chí ít phải bắt đầu từ thời Gia Long,
mới đủ tầm nhìn cho đánh giá tập trung đoạn trường của đất nước mình từ 1930
đến nay, nhất là 4 cuộc kháng chiến vừa qua, và chặng đường đất nước độc lập
thống nhất đến hôm nay được / mất ra sao.
Món nợ thứ hai: Tổng kết
đường lối đối ngoại của Viêt Nam và những thành / bại từ Cách Mạng Tháng Tám
đến hôm nay! Vì đất nước đang rất cần những bài học để tìm ra con đường có thể
sống được trong cái thế giới đã sang trang này!
Xin mạn phép nói luôn: Về
hai món nợ trên, hay là về hai đề tài nói trên, toàn bộ cái hệ thống các think
tank mà chế độ ta đang nuôi – dù là thuộc về ĐCSVN hay là thuộc bên nhà nước,
đều chưa bên nào có một công trình nghiên cứu đủ độ tin cậy, có thể mang lại
lợi ích cho đất nước, tôi đánh giá như vậy. Tất cả những gì cái hệ thống các
think tank này 43 năm qua đã viết ra về 2 chủ đề này đã in ra thành sách công
khai, nhìn chung quá dưới tầm, có nhiều điều không thật, và không ít những thứ
sai, chỉ để tô hồng và biện minh!
Nguyên nhân hàng đầu: ĐCSVN
và chế độ chính tri hiện nay không cần hay không muốn đối mặt với sự
thật.
Tôi nghĩ thế. Nhưng chính
tôi cũng đang bất lực. Xin lúc nào đó sẽ bàn tiếp. Hơn nữa, đây không thể là
công việc của một người.
Xin kể một dẫn chứng làm ví
dụ: Thời tôi làm trợ lý cho anh Kiệt, một hôm tôi được anh đưa cho bộ sách (bản
thảo) “Lịch sử kháng chiến miền Tây Nam Bộ”, hai tập, khoảng gần 2000 trang..,
yêu cầu đọc và sớm đưa ra nhận xét để góp ý.
Độ 3 tuần sau tôi trả lại
sách và trình bầy với anh Kiệt:
- Nếu cuộc kháng chiến
chống Mỹ ở Miền Tây Nam Bộ mà như thế này, thì phía ta xoàng quá, đánh một kẻ
địch thua kém ta về mọi mặt, từ đạo đức, trí tuệ, đến năng lực chiến đấu… Địch
ngu dốt mọi đường, cái gì ta cũng biết trước, ta thì siêu thông minh, siêu anh
hùng… Đảng thì cực kỳ vỹ đại qua các cán bộ của mình, chẳng thấy dân đâu cả,
đất nước mất còn cái gì không rõ, cũng không có bài học nào đáng giá có thể rút
ra ngoài cái kiên cường, anh dũng, hy sinh… Sách không thể dùng để dậy sử, dùng
để tuyên truyền giáo dục càng có hại!..
Giáo sư Ngô Vĩnh Long ở Mỹ
cũng đồng tình với nhận xét của tôi như vậy.
Xin nói riêng tại đây với
ĐCSVN: Bộ phận lý luận và think tank của Đảng đang nợ đất nước và nợ chính
ĐCSVN một bộ sử Đảng trung thực và khoa học. ĐCSVN muốn vươn lên thay đổi chính
mình để phục vụ đất nước, tôi nghĩ không thể thiếu một bộ sử như thế.
...
Thời gian công tác ở ĐSQ ta
tại CHDCĐ, tôi có một may mắn được Bộ cử đi cùng với đồng chí đại sứ sang Áo và
Đan Mạch là 2 nước chưa có quan hệ ngoại giao với ta hồi ấy, để vận động hai
nước này ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ta.
Đường đi qua Praha, đúng
vào khoảng thời gian xảy ra Cách mạng mùa xuân Praha 08-1968. Khi chúng tôi tới
nơi, chính quyền của Alexander Dubcek đã bị dẹp xong xuôi, tình hình đã dịu đi
nhiều... Song các đơn vị quân đội do Liên Xô được điều động tới (báo chí nói là
nửa triệu quân của khối Varsovie) vẫn còn đầy đường. Phố xá đã đi lại bình
thường, song vẫn trong không khí căng thẳng… Tôi tự hỏi mình nhiều điều.
Nhưng ĐSQ ta tại chỗ giải
thích theo ngôn ngữ: Lực lượng cách mạng đã dẹp tan lực lượng phản cách
mạng…
Hôm sau, khi sang đến
Vienne, báo chí ở đây nói khác hẳn.
Tôi thầm lo nhiều điều cho
phe XHCN của mình, lo tại sao ta cứ phải gọi sự việc đã xảy ra bằng những cái
tên không phải là của nó!? Nhất là nỗi lo: Tính ưu việt của chế độ XHCN tại sao
lại dẫn tới sự kiện nhân dân phải theo cái ông Alexander Dubcek là đảng viên
đảng lãnh đạo của mình nổi lên giành lại chính quyền, dù chỉ là trong vài
ngày?.. Cướp chính quyền từ tay một đảng cộng sản đâu dễ dàng vậy?.., thế rồi
lại phải dùng quân đội của cả khối Varsovie mới dẹp tan được, rồi còn phải ở
lại ít bữa để trấn an?.. Phản động trong dân của chế độ XHCN ở đâu ra mà đông
thế mà phải làm vậy?.. V.. v…Sự việc hẳn phải có những gì ẩn khuất bên trong
sâu hơn…
Tôi dịch một số bài báo ở
Áo cho đại sứ nghe và nói: Cần tìm hiểu kỹ vấn đề, phải có cái gì đó bên trong
sự vật.., nhất là 1949 ở Berlin đã xảy ra một vụ bạo động tương tự, rồi một vụ
nổi dậy vũ trang ở Hungary 1956 – vẫn cùng một cách giải thích là chống bạo
loạn phản cách mạng… Đại sứ đồng tình, song hai chúng tôi cũng thừa nhận phải
có cách báo cáo và trình bầy với trong nước, nếu để bị quy chụp là “xét lại!”
thì khỏi phải làm việc! Nhất là vào thời kỳ này trong nước đang có vấn đề
“chống xét lại!” rất quyết liệt.
[Khi tôi còn đang ngồi ở
ghế nhà trường, xẩy ra sự kiện xây dựng bức tường Berlin 13-08-1961, mở đầu là
thiết lập trong một đêm một vòng dây thép gai khép kín chung quanh Tây Berlin,
bản thân bức tường khoảng một năm sau mới hoàn thành. Sự việc bắt đầu từ các
bạn học Đức của tôi là đoàn viên FDJ (Đoàn Thanh niên tự do Đức) đột nhiên vắng
mặt hàng loạt, hầu như trong toàn trường. Sau này được các bạn ấy kể là đã cùng
với các đoàn viên FDJ trong cả nước tham gia sự kiện này, với sự hậu thuẫn của
quân đội CHDCĐ và quân đội Liên Xô. Chiến tranh lạnh đi vào thời kỳ cao điểm
mới.]
Sau này nghiên cứu kỹ tình
hình các nước XHCN Đông Âu và những mối quan hệ của họ với Liên Xô, tôi hiểu rõ
hơn nhiều chuyện và căn nguyên.
Qua Áo, đi Đan Mạch, rồi
qua Tây Berlin trở về ĐSQ của mình, hai chúng tôi có dịp tiếp xúc một số nhân
vật, tham quan một số xí nghiệp lớn… Chuyến đi này lần đầu tiên cho tôi cái
nhìn trực tiếp và khá cụ thể về tình hình kinh tế - chính trị - xã hội phương
Tây – tạm nói như vậy.
…Hôm ấy, sau khi hai chúng
tôi vừa mới đặt chân vào khách sạn đầu tiên tại Vienne để nhận phòng và gởi
hành lý, khi quay ra đi gặp Bộ Ngoại giao Áo, thì đã thấy cánh cửa chiếc xe Cadillac
chở bọn tôi bên trong gắn một phong bì nhỏ. Ngồi trong xe mở ra xem, là một
thiếp in rất đẹp của một hộp đêm, mời hai chúng tôi đi mua vui Vienna by night, nền của
thiếp mời là hình một phụ nữ khỏa thân! Tôi dịch cho đại sứ nghe.
- Họ dùng mỹ nhân kế dụ
chúng ta? – đại sứ hỏi.
- Tôi chịu, không đoán
được.
- Chúng ta phải cảnh
giác.
- Đồng ý.
- …
Mấy ngày ở Vienne là mấy
lần chúng tôi nhận được những thiếp mời như thế. Cả đại sứ và tôi vỡ lẽ: Thế
giới phương Tây mà!..
Hồi ấy hai chúng tôi ấu trĩ
đến mức như vậy.
Kể lại chi tiết này tôi chỉ
muốn nhắc lại: Hồi ấy sự nghi kỵ lẫn nhau do không khí chiến tranh lạnh tạo ra
ngấm vào vi ti huyết quản con người, đến nỗi nhìn vào đâu cũng thấy “địch!”…
Song chính câu chuyện rất vặt vãnh này nhắc nhở tôi không bao giờ được xem xét
sự vật bằng những định kiến có sẵn!..
Tóm tắt thu hoạch toàn bộ
chuyến đi: Tôi thấy họ dân chủ hơn, nhiều tự do hơn, và năng suất lao động cao
hơn!
Sống và làm việc trong một
Bộ làm chính trị (nghĩa là không phải một Bộ làm kinh tế hay làm kỹ thuật), tôi
được giáo dục kỹ về lập trường giai cấp và chủ nghĩa Mác – Lênin (đương nhiên
thứ CNML do Liên Xô Stalin sáng tác, được Trung Quốc hóa, rồi được Việt Nam hóa
thêm), trong đó tôi tán thành quan điểm: năng suất lao động là thước đo, là
phản ánh trình độ lạc hậu hay phát triển và những đặc tính phản tiến bộ hay
tiến bộ của một chế độ kinh tế - chính trị - xã hội.
Và… năng suất lao động phương
Tây ở những nơi chúng tôi đi qua nói trên hiển nhiên cũng cao hơn, so ngay với
CHDCĐ. Xin lưu ý, trước chiến tranh thế giới II Áo và Đan-mạch đều ở trình độ
phát triển kém nước Đức.
Tôi bắt đầu phải kiểm điểm
lại những gì mình đã được học và được trau giồi… Song phải giấu kỹ mọi người:
Tôi mắc bệnh “xét lại!”
Đối mặt với sự thật và trao
đổi thẳng thắn ý kiến của mình dần dà trở thành phong cách làm việc của tôi.
Không hiếm lúc tôi bị đồng nghiệp và cấp trên chụp cho cái mũ “kiêu ngạo”, (tôi
nghĩ bụng: dù sao vẫn còn may, chưa bị kết tội là “xét lại!”, nếu không thì ăn
đòn nặng từ lâu rồi!). Tôi cố sửa đổi cách diễn đạt và thận trọng hơn, song
kiên định điều gì mình tin. Tính tôi là như vậy.
Vấn đề Đức suốt thời chiến
tranh lạnh là một vấn đề khó, có nhiều vấn đề nhánh và phức tạp của vụ LXĐÂ –
nơi mà tôi công tác, vì nó liên quan trực tiếp đến Liên Xô và toàn bộ thế giới
phương Tây. Song cách làm việc của tôi có hiệu quả, được chấp nhận và tin cậy.
Đây cũng là một lợi thế cho tôi có cớ và có dịp để nói sự thật và dám nói
thật.
Cũng có thể nói, những năm
đằng đẵng làm việc ở CHDCĐ tôi cố phấn đấu trở thành một nhà ngoại giao chuyên
nghiệp, bù đắp cho sư thiếu hụt tôi không được đào tạo bài bản cho lĩnh vực
này. Đằng đẵng, vì những năm này chiến tranh trong nước khốc liệt, phải xa nhà
lo lắm, khổ lắm…
…
Ngày 30-04-1975 đến với tôi
ở CHDCĐ. Tôi được lệnh về nước gấp đi tiếp quản đại sứ quán Việt Nam Cộng Hòa
tại liên bang Đức, xúc tiến mối bang giao giữa nước ta nước Đức thống
nhất.
Nhờ vào những năm chuyên
sâu vấn đề Đức, khi được giao nhiệm vụ đại biện lâm thời của nước ta ở CHLB Đức
kiêm nhiệm Thụy Sỹ sau 30-04-1975, tôi nhập cuộc khá thuận lợi trong xúc tiến
những mối quan hệ bang giao với nước Đức thống nhất, cũng như trong nhiệm vụ
thiết lập đại sứ quán của ta. Quan hệ của tôi với con người và các cơ quan hữu
quan của nước sở tại phát triển khá nhanh chóng. Đồng thời ngay lập tức tôi tìm
cách giáp mặt xúc tiến các mối quan hệ kinh tế với các tập đoàn có tên tuổi của
Đức..
Cơ quan tất cả chỉ có 6
người trong một thời gian dài, song hoạt động như một ĐSQ hoàn chỉnh, trong
tình hình thiếu thốn mọi điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết. Sống ở khách
sạn là chính, cứ một tháng hay 5 – 6 tuần lại phải chuyển chỗ ở một lần. Bonn
là thành phố nhỏ và là thành phố du lịch, việc thuê khách sạn rất chật vật,
luôn luôn phải đặt trước khá lâu… Mỗi lần di chuyển như thế là vô cùng vất vả
đối với việc bảo vệ và bảo mật tài liệu. Nhiều tháng sau mới tìm mua được ngôi
nhà ưng ý làm trụ sở cho ĐSQ. Rồi lại phải nhiều tháng nữa mới hoàn tất được
mọi thủ tục mua nhà. Rồi thời gian sửa chữa lại nhà gần như từ A – Z, từ một
biệt thự trở thành trụ sở của một cơ quan đại diện ngoại giao của nước ta… Tôi
học được rất nhiều thứ mới trong cuộc đời “du mục” tạm thời này.
Việc mua nhà ở Bonn cho tôi
một bài học rất quý về phát triển dịch vụ công trong một bộ máy quốc gia – từ
quan niệm, luật pháp, cách tổ chức thực hiện, lực lượng chuyên môn phải có,
cách vận hành, các chính sách hỗ trợ và bảo hộ của nhà nước… Một bài học cả lý
luận và thực tiễn không phải trả học phí, có ích cho tôi rất nhiều sau này
trong việc đóng góp ý kiến với Chính phủ ta về đề tài này. Hệ tổ chức nhà nước
có dịch vụ công như vậy đã tinh giảm tối ưu bộ máy nhà nước, tính trách nhiệm
giải tình và công khai minh bạch cao rõ rệt, tham nhũng khó luồn lọt, dân chủ
và quyền & quyền lợi của dân được bảo đảm…
Sau đó đại sứ đầu tiên của
nước ta ở CHLBĐ là đồng chí Nguyễn Mạnh Cầm.
Những năm công tác của tôi
ở CHLBĐ là một cơ hội quan trọng cho tôi tìm hiểu toàn diện một quốc gia phương
Tây cụ thể, và qua đó hiểu thêm thế giới phương Tây. Hàng chục năm ngày đêm vốn
phải ăn ngủ với vấn đề Đức, nghề nghiệp của tôi ngay từ khi rời đại học Leipzig
(Karl Marx) năm 1964 là phải thường xuyên đem 2 nước Đức ra cọ xát với nhau.
Cho nên, khi sống trong lòng CHLBĐ, tôi có dịp kiểm điểm lại mọi hiểu biết của
mình, chú trọng tìm hiểu cấu trúc và sự vận hành của (1) hệ thống nhà nước, (2)
hệ thống kinh tế, và (3) sự vận động của xã hội và toàn bộ hệ thống chính tri –
nói theo ngôn ngữ hôm nay là xã hội dân sự.
Điều này khiến tôi rút ra –
(có thể đúng hoặc sai, nhưng đến hôm nay tôi vẫn giữ kết luận như thế): Đặt hệ
thống chính trị bao gồm các đảng phái và các tổ chức chính trị / xã hội… vào
phạm trù xã hội dân sự là khác biệt quan trọng nhất của thể chế dân chủ so với
chế độ chính trị một đảng!.. Nói rõ hơn nữa: Xã hội dân sự là môi trường sống
của mọi đảng phái chính trị. Còn trong hệ thống nhà nước chỉ có Hiến pháp và
luật pháp. Toàn bộ hệ thống an ninh quốc phòng, gìn giữ trật tự xã hội đều
thuộc phạm trù nhà nước – trong đó trên hết là hiến pháp và hệ thống pháp luật,
mọi công dân đều dược đối xử bình đẳng. Song ở nước ta, đảng và hệ thống chính
trị hữu cơ [built-in] nằm ngay trong hệ thống nhà nước, đứng trên nhà nước, đứng
trên hiến pháp.
Dần dần tôi ngày một hiểu
thêm cấu trúc rường cột cho sự vận động và phát triển của một quốc gia phải gồm
đủ bộ 3 trụ cột hài hòa: Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, xã hội dân
sự. Càng so sánh, tôi càng hiểu thêm vì sao CHLBĐ có trình độ phát triển cao
hơn hẳn CHDCĐ – dù cùng sinh ra từ một quốc gia, những lý lẽ biện minh trước
đây cho sự phát triển chậm hơn của CHDCĐ tôi được “tuyên truyền” hay là tự tôi
có được không còn đứng vững được nữa.
Có nhiều chuyện minh họa để
kể. Nhưng tôi chỉ muốn lẩy ra 2 ví dụ đơn giản và dễ thấy nhất:
- Khả năng tiếp cận và kiểm
chứng thông tin rất phong phú, nhờ đó tôi sớm hiểu được với sự tin cậy nhất
định những vấn đề tôi nghiên cứu và muốn biết đến nơi đến chốn. Ngôn ngữ khoa
học thì nói đấy là tính công khai minh bạch của hệ thống và trách nhiệm giải
trình. (Có lần tôi đã tự nói với mình: Ở CHLBĐ làm công tác nghiên cứu sướng vô
cùng so với CHDCD. Song những thập niên về sau này khi đi vào vùng trời Mỹ, tôi
lại thấy nghiên cứu chính trị và kinh tế ở Mỹ là sướng nhất, vì có thừa các
vùng cho bơi lội tìm kiếm, chỉ sợ không có sức bơi, và nếu bơi không đúng cách
thì cũng chết đuối luôn – vì không tài nào đọc xuể thông tin và những sản phẩm
trí tuệ sản sinh hàng ngày!..).
- Về hệ thống chính trị là
đa nguyên đa đảng của CHLBĐ: Trong thực tiễn cuộc sống, hệ thống luật pháp
CHLBĐ cuối cùng vẫn sàng lọc được nhiều thứ, để bao giờ cũng chủ yếu còn lại 4
đảng chính lâu đời, có vai trò quyết định, loại bỏ được rất đáng kể cái tệ hại
của thứ dân chủ bầy đàn, làm nổi bật một cách tập trung vào những vấn đề quốc
sách lớn cho tranh cử của các đảng phái và cho sự lựa chọn của bầu cử. Bầu cử ở
quốc gia này mang tính chất lựa chọn quyết sách là chủ yếu – người trúng cử
trước hết vì nội dung tranh cử của mình được lựa chọn. Bầu cử ở chế độ một đảng
hầu như chỉ chọn người lãnh đạo là chủ yếu! Đáng chú ý là các đảng chính trị -
kể cả 4 đảng chính này – đều không có cấu trúc tổ chức và phương thức vận hành
như các ĐCS nắm quyền ở các nước XHCN, càng không có hệ thống chính trị dọc với
các chân rết chi bộ / tổ đảng xuống tận thôn xóm, ngõ ngách, khu phố, xí
nghiệp, cơ quan, đoàn thể, trường học, bệnh viện… Xin vào đảng, bỏ đảng, hay
thay đổi đảng là quyền công dân… v… v… Thế nhưng tổ chức và phương thức hoạt động
của 4 đảng chính này vẫn bảo vệ được vai trò và truyền thống của họ, vân vân…
Nói đến cùng, cách vận động như vậy của thể chế đa nguyên CHLBĐ dẫn tới kết quả
chọn lọc: Về cơ bản, quốc gia này vẫn do đội ngũ elite của
nó đến từ những nhóm quyền lực hay những nhóm có ảnh hưởng khác nhau của
đất nước này dẫn dắt. Không hiếm trường hợp những lực lượng cực đoan, hoặc thậm
chí mang các mầu sắc tự do vô chính phủ, phát xít, “đảng xanh”, “đảng đỏ”… bị
loại trong các cuộc bầu cử ở CHLBĐ. Thực tế này chứng minh: một nước phát triển
và giầu mạnh không thể do nhóm người điên khùng hay thiểu năng trí tuệ dẫn dắt!
(Tuy nhiên đôi khi vẫn xảy ra ngoại lệ cá biệt).
Nói ra thì đơn giản như vậy,
song trước hết đó là kết quả cả một quá trình phát triển văn minh hai ba thế kỷ
nay. Chỉ có điều, các nước đi sau có thể làm cho quá trình này ngắn hơn, tùy
theo sự phấn đấu của mỗi quốc gia – trước hết là đội ngũ tinh hoa của những
nước này.
Đương nhiên sự vật vận động
không ngừng. Hôm nay hầu hết xã hội các nước phát triển phương Tây đều có vấn
nạn của chủ nghĩa dân túy hôm nay (cũng có người gọi là neo-populism) – một sản
phẩm mới của quá trình phát triển và toàn cầu hóa. Ngày càng có những vấn đề mới
khác xuất hiện chưa có lời giải… Nguyên nhân gốc là sự phát triển nói riêng và
toàn cầu hóa nói chung không phải là một quá trình chia đều cho mọi người trong
một quốc gia mọi cơ hội và thách thức, dẫn tới những phân hóa mới, những vấn đề
mới trong mọi mặt của cuộc sống.
Tại Thụy Sỹ, điều hấp dẫn
nhất của quốc gia này đối với tôi là vì sao các con hùm, con sói chung quanh nó
luộn luôn để cho nó yên!.. Trong khi đó chẳng ai để nước mình yên!..
Một mẩu chuyện vui: Đại
diện tập đoàn đầu tiên tôi gặp khi đặt chân đến Bonn là hãng Krupp, tại chiêu
đãi quốc khánh của ĐSQ Tiệp Khắc. Ông này dễ bắt chuyện, với điều kiện phải
thực hiện một cuộc thi: Cả hai, cứ mỗi người một lượt uống một cốc bia Pilsner
(vùng Pilsen nổi tiếng) thì phải uống kèm thêm một cốc vodka Nga, sau đó cứ
tiếp tục các lượt như thế, đến khi nào ông ta cảm thấy làm bạn được với tôi thì
dừng và kết bạn! Tôi nói: Cuộc đố này không “fair” vì chỉ có một bên được quyền
quyết định, nhưng tôi chấp nhận! Vì tôi muốn mời Krupp sớm vào Việt Nam!
Ông ta thì như hộ pháp, tôi
chỉ bằng 2/3 thôi, đố với tay này không dễ… Song tôi đã có mẹo riêng của mình.
Cứ mỗi lần uống xong 2 thứ một lượt như thế, tôi lấy cớ đi la cà với các bàn
tiệc khác để giao tiếp, ngoài ra còn có mục đích phải cố tìm một bát súp nhỏ
húp vào bụng cho loãng rượu đi. Xong, tôi quay lại chỗ cũ tìm ông ta, chấp nhận
đố tiếp… Cứ thế đến lần thứ 5 thứ 6 gì đó, ông ta ôm hôn tôi và tuyên bố kết
bạn… Sau này Krupp cũng là hãng sớm nhất cử người vào tìm hiểu khả năng đầu tư
ở Việt Nam, trong đó có ông bạn thách rượu này!..
Nhưng cũng có một chuyện
hồn vía lên mây: Một lần di chuyển cơ quan sang khách sạn khác, vì thời hạn
thuê khách sạn đang ở đã hết. Như mọi khi, sau một đêm ngủ ở khách sạn mới,
buổi sáng tự tôi một lần nữa điểm lại từng người một mọi việc, trước khi bắt
đầu ngày làm việc đầu tiên ở chỗ mới. Đến khi tôi hỏi người giữ cặp tiền mặt để
mua nhà, cặp tiền đâu, anh ta nói: Ở trong tủ rồi ạ! Tôi đòi cho xem, anh ta
tìm cặp tiền không thấy đâu nữa! Họp toàn cơ quan, bàn đi bàn lại mãi, anh ta
vẫn khăng khăng “Tự tay em xách lên tối hôm qua, anh đã hỏi em rồi, tự tay em
cho vào tủ, không thể khác được!..” Cuối cùng tôi quyết định xuống lục lại xe ô
tô xem sao, mà xe này lai do ĐSQ Cuba cho mượn tạm. Đêm qua quá khuya mới
chuyển đồ đạc xong nên ĐSQ Cuba chưa kịp đến đòi xe về.
May quá: Cặp tiền vẫn chơ
vơ một mình trong xe suốt một đêm!
Tôi cảm ơn trời!
Công việc của ĐSQ ta những
tháng và thậm chí suốt cả năm đầu tiên, không thể không thiếu sự giúp đỡ rất
nhiệt tình của một số bạn người Đức trong phong trào ủng hộ Việt Nam và của
cộng đồng sinh viên Việt Nam học ở Tây Đức (CHLBĐ). Một số ĐSQ thân với ta ghen
tỵ với ĐSQ ta, vì ở Bonn rất đắt đỏ, không dễ gì làm được nhiều việc như ĐSQ
ta.
Song một nỗi buồn đau lòng
đến rất sớm: Nhiều anh chị sinh viên ở Tây Đức đã nhiệt tình tham gia ủng hộ
cuộc kháng chiến chống Mỹ của đất nước từ nhưng năm mới vào trường, bây giờ học
xong, nước nhà thống nhất, họ rất muốn về nước xây dựng đất nước, nhưng không
được chấp nhận.
Trong nước đưa ra cho ĐSQ
đủ mọi thứ lý do để tùy nghi giải thích, nghĩa là gần như đẩy quả bóng vào chân
ĐSQ!..
Càng để chậm, số tốt nghiệp
càng đông, số đơn xin về nước không được chấp thuận càng nhiều!.. Họ bắt buộc
phải tìm mọi cách ở lại sinh sống tại nước Đức, lại phải trải qua những thủ tục
xét duyệt rất phức tạp của nước sở tại… Nhọc nhằn và tủi hổ vô cùng!..
Tôi vốn dỹ có quan hệ mật
thiết với phong trào sinh viên ta ở Tây Đức nhiều năm trước 30-04-1975, được
anh chị em quý mến, vẫn là bạn của nhau ở tuổi đầu bạc hôm nay, bây giờ một vài
anh chị đã đi xa… Song tôi không thể tìm ra lời lẽ thuyết phục để giải thích
việc các anh chị xin về nước phục vụ không thành, càng không thể giúp được bất
kỳ một ai! Tôi không biết xin lỗi anh chị em như thế nào về sự bất lực của
mình. Đại sứ và tôi báo cáo đi báo cáo về thế nào đi nữa, trong nước vẫn không
xoay chuyển!
Càng về sạu, vấn đề người
Việt ở Đức càng là vấn đề lớn, vì thêm số lao động ở CHDCĐ ở lại, rồi những làn
người nhập cư mới, năm sau nhiều hơn năm trước…
Cái rủi mau chóng trở thành
cái may, tuy ít nhiều mỉa mai: Nếu có được về nước làm ăn sinh sống và phục vụ
đất nước, hầu như chắc chắn những anh chị em này cũng sẽ phải sớm tìm cách ra
đi thôi. Bởi vì làm sao những anh chị này có thể sống bằng tiền lương trong
nước, lại càng không thể thích nghi với môi trường làm việc và chế độ.
Niềm vui nho nhỏ: Năm tháng
qua đi, trong số này ngày càng nhiều anh chị ở tuổi về hưu đã trở về sống trong
nước, đương nhiên sống bằng lương hưu của nước ngoài và hình như với cả hộ
chiếu nước ngoài nữa. Không sao cả, hầu hết những anh chị này lại góp phần xứng
đáng của mình vào sự nghiệp chung bằng cách khác, rất có lợi cho đất nước.
Những sản phẩm trí tuệ của những Bùi Văn Nam Sơn, những Nguyễn Xuân Xanh là
những ví dụ tiêu biểu. Đất nước vẫn mong đợi rất nhiều những đóng góp như thế
của các anh các chị!.. Chung cuộc câu chuyện như thế, phải nên coi là “Happy
End!”…
Tuy nhiên, “Happy End!” như
thế, chỉ có thể làm cho tôi cười gượng thôi, vì thiệt thòi cho đất nước nhiều
quá! Dù sao vẫn còn hơn là phải mếu!.. Tôi lại vấp phải câu hỏi mới: Không biết
đất nước ta hàng ngày có bao nhiêu cái thiệt không đáng có như vậy?..
Kết thúc nhiệm kỳ ở CHLBĐ
khoảng cuối thập niên 1970, tôi “ly hôn” với thế giới Đức của mình, 1957 –
1978, nghĩa là cuộc hôn nhân này được 2 thập kỷ. Để từ đó “kết hôn” với cả thế
giới, tôi được chuyển hẳn sang công tác ở một vùng trời khác của ngoại giao,
song có thể nói là hoàn toàn mới đối với tôi: Lĩnh vực kinh tế - nói chính xác
hơn: Kinh tế và phát triển! Trong thời kỳ này tôi đi đến nhiều nơi khác nhau
trên thế giới để tìm những câu trả lời cho nhiệm vụ của mình.
Cuộc hôn nhân mới này đến
hôm nay (2018) được 4 thập kỷ. Tôi không biết có thể kỷ niệm ngày cưới vàng(50
năm) cho cuộc hôn nhân này không, vì tuổi mụ năm nay đã 84 rồi!.. Tôi cố phấn
đấu…
Cái giá phải trả cho cuộc
hôn nhân mới là 40 năm nay tôi không dùng tiếng Đức nữa, bây giờ cứ mở mồm nói
tiếng Đức thì chỉ được vài câu, rồi tự nó nhảy sang tiếng Anh. Hơn nữa hầu hết
mọi thứ tôi phải đọc hàng ngày là tiếng Anh, sách báo cho nghiên cứu sâu những
vấn đề tôi muốn hiểu tìm kiếm được cũng chỉ là tiếng Anh… Song may mắn thay,
những lúc khó, tôi vẫn phải dựa vào tiếng Đức để kiểm tra tiếng Anh của mình.
Tôi tự rút ra cho mình một kinh nghiệm, nhưng hơi muộn: Vốn quý thế nào đi nữa
mà không dùng, đến thế nào cũng sẽ mai một! Có đúng không nhỉ?..
…
[1] Thú
thực, nhiều khi tôi nhìn thân phận của Faust trong tác phẩm cùng tên của
Goethe, để tự an ủi mình: Hiểu biết phải giành lấy mới có được, dám sống thì
phải trả giá!
______________________________________________________
Tôi làm “chính trị”
Những kỉ niệm và trăn trở
Hồi
ký
Nguyễn
Trung
Phần một: Vào đời
3
Một kỷ niệm buồn:
Ít lâu sau khi ở Bonn về
nước, một hôm anh Phan Văn Kim, nguyên là tham tán công sứ của Việt Nam ở CHDC
Đức mời tôi đến nhà anh để cùng đi ăn phở với đại sứ Phạm Ngọc Thuần. Bộ 3
chúng tôi thời ở ĐSQ ta tại CHDCĐ vốn rất quý mến nhau, lúc đó tôi là tùy viên
và là phiên dịch cho hai anh. Tôi không ngờ bữa được anh Phan Văn
Kim mời đi ăn phở sáng hôm ấy ở phố Hàng bát đàn, lại là để chia tay anh Thuần
và chị Cẩm (phu nhân của anh Thuần) rời quê hương mãi mãi để sang sống ở Pháp.
Một cuộc chia tay đến dứt áo dứt lòng, nhưng vô cùng đơn sơ, chung quanh bàn
phở! - vì hồi đó đất nước nghèo quá!.. Nhưng vô cùng nặng lòng giữa kẻ ở người
đi! Tôi hiểu rất rõ gia đình và thân thế anh Phạm Ngọc Thuần, người đã dấn thân
cho sự nghiệp cứu nước từ lúc còn là luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần ở Sài Gòn,
sau đó là Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, chủ bút tờ báo
tiếng Pháp trong kháng chiến chống Pháp "La Voix du Maquis (Tiếng nói Bưng
Biền). Về danh nghĩa gia đình anh Thuần được nhà nước cho đi Pháp chữa bệnh,
song tôi hiểu trong lòng là một sự chia tay đau đớn và đầy thất vọng đối với
chế độ. Tôi biết, sau 30-04-1975 có một số nhân vật danh tiếng trong Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng chung một tâm tư và cùng đi
tới quyết định như của gia đình anh Phạm Ngọc Thuần!
Nghĩ đến, hôm nay vẫn tê
tái trong lòng!..
…Đang làm chánh văn phòng
Bộ Ngoại giao thời bận tối mắt, vì Mỹ ra sức bao vây cấm vận, và Trung Quốc
triệt để khai thác vấn đề Campuchia chống nước ta, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch
giao nhiệm vụ cho tôi:
Tạm giao mọi việc cho người
khác, đi Úc ngay thay đai sứ S; Bộ vừa mới nhận được điện của S xin thôi chức
đại sứ và mong được về nước gấp. Tìm hiểu xem đây là việc gì, hoàn toàn chưa có
tiền lệ. Cần làm mọi việc vận động Úc sớm đón Bộ trưởng để phá thế bao vây cấm
vận hiện nay!
Hôm sau chào từ biệt Bộ
trưởng để lên đường, tôi còn được dặn dò kỹ lưỡng, nếu là có bàn tay phá hoại
thì là ai? Phải làm rõ nội hay ngoại?..
Đấy là câu chuyện khoảng
đầu những năm 1980s.
Với cái vali toòng teng,
mấy bộ quần áo có sẵn, hành lý của tôi nhẹ gọn. Tôi chọn đôi giầy đẹp nhất do
Tiệp Khắc sản xuất, vẫn để dành, bây giờ mang ra dùng, vì với khí hậu ở nhà
chẳng bao giờ phải dùng đến, hơn nữa từ năm 1980 trở đi tôi chuyên về công tác
nghiên cứu kinh tế, ít khi phải tiếp xúc với cơ quan hay người nước
ngoài…
Lững thững tại sân bay
Sidney, đang tìm cách bay tiếp đến Canberra, tôi bỗng nhiên đi khập khiễng, cứ
tưởng là bệnh thần kinh tọa của mình tái phát. Kiểm tra lại cái chân, thì ra
một chiếc giầy đã bị gãy gót, vì cái đế plastic bị lão hóa. Khó xử! Nhưng tôi
mặc kệ.
Đến Canberra, chiếc giầy
còn lại gãy gót nốt. Cả hai mũi giầy của tôi trong mỗi bước đi cứ hếch lên như
giầy của Charlie Chaplin! Tôi thấy vui vui, nới rộng thắt lưng quần một chút
cho hai ống quần chùm sát gót. Thế là vẫn tươm tất trước tất cả những con mắt
chào đón tôi tại ĐSQ ta ở Canberra.
Ngay sau những phút chào
hỏi đầu tiên, qua cách ăn nói của mọi người tôi đã nhận ra một sự lộn xộn nào
đó theo kiểu cá mè một lứa trong ĐSQ. Tôi coi như không để ý, từ tốn yêu cầu
thu xếp chỗ nghỉ chu đáo, vì đường bay dài, muốn nghỉ sớm. Sau đó tôi lấy cái
ghế ra ngồi tại giữa nhà, vui vẻ nói:
- Đố cả nhà xem tôi có gì
đặc biệt không?
Tiếng nói cười vui vẻ huyên
thuyên, có đôi lời hơi quá chớn… Song không ai thấy tôi có gì đặc biệt.
Tôi đứng lên đi đi lại lại
giữa nhà, điệu bộ như người biểu diễn thời trang:
- Cứ ngắm kỹ nữa đi! Nói
trúng sẽ có thưởng!
Mãi, rồi mọi người vẫn lắc
đầu chịu.
Tôi ngồi lại vào ghế, rồi
kéo hai ống quần lên, đưa cả hai chân lên trời, giải thích đôi điều. Đôi giầy
gãy gót của tôi đem lại cho mọi người một trận cười…
Kết thúc buổi đố vui, tôi
đứng dậy nghiêm nghị:
- Xin nói vài câu về công
việc, sáng mai tất cả chúng ta sẽ bắt đầu. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch yêu cầu sứ
quán ta phải làm mọi việc, vận động Úc sớm đón Bộ trưởng để phá vỡ bế tắc ngoại
giao. Từ sáng mai, ai phải làm đúng việc nấy. Không hoàn thành nhiệm vụ, tôi sẽ
đuổi về nước ngay tức khắc. Bây giờ mời các đồng chí về đi ngủ!
Tôi cảm nhận được sự bất
ngờ trong phòng trên khuôn mặt mọi người. Những lời nói nghiêm của tôi có tác
dụng…
Vài ba ngày sau tôi thu xếp
xong việc giúp vợ chồng anh S về nước. Hai anh chị kỹ tính đến mức yêu cầu tôi
phải cùng bay từ Canberra để tiễn tại sân bay Sidney, tôi cũng chiều lòng, vì
muốn nhanh chóng tập trung vào những việc phải làm.
Sau đó, ngay lập tức tôi
sắp xếp lại toàn bộ công việc của cơ quan theo đúng chức năng từng người – bao
gồm cả những việc phải kiêm nhiệm; loại bỏ sự nhập nhèm coi “việc kiêm nhiệm”
chỉ là những việc tự nguyện, làm cũng được, không làm cũng được, thậm chí làm
thì cơ quan phải bồi dưỡng thêm tiền…
Tôi nói dứt khoát: Ngoài
lương ra, không có gì hết.
Mọi chuyện dần dần vào
khuôn phép, tôi dồn mọi sức lực cho nhiệm vụ ngoại giao và chuyện của anh
S.
Được Bộ Ngoại giao Úc giới
thiệu tôi là người mới đến thay anh S, báo chí sở tại túm bắt tôi mọi lúc có
thể để khai thác, vì Việt Nam đang có nhiều vấn đề nóng bỏng. Một số cơ quan,
tổ chức, trường đại học… tới tấp mời tôi đến nói chuyện.., lịch làm việc lúc
nào cũng kín mít. Tôi cố đáp ứng ở mức có thể, nghĩa là dứt khoát không trốn
tránh khi thời gian còn cho phép… Nhất là lúc này vấn đề Campuchia đang rất
nóng.
Thời gian này đang là cao
trào của những hoạt động quyết liệt chống đối nhà nước CHXHCNVN của các lực
lượng khác nhau trong cộng đồng bà con người Việt sống ở Úc. Biểu tình trước
ĐSQ ta để chống đối là chuyện thường xẩy ra vào mọi dịp khác nhau, có những
cuộc biểu tình khá quyết liệt, kéo dài nhiều giờ, thậm chí có khi quá khích đạn
bắn vào quốc huy treo ở cửa ĐSQ… Trên đường đến làm việc tại các cơ quan của
Úc, xe của Việt kiều quá khích đuổi theo xe chúng tôi làm những chuyện uy hiếp
này nọ… là chuyện bình thường…
Tôi đã làm quen với những
thứ căng thẳng này trong một vài chuyến đi Mỹ trong những năm trước, nên không
bận tâm lắm. Lần căng thẳng quyết liệt ở Mỹ tôi nhớ mãi là trong chuyến đi của
Phó thủ tướng Trần Đức Lương, tôi được Bộ cử sang làm cố vấn cho đoàn trong
những vấn đề kinh tế đối ngoại. Trong chuyến đi này tôi không phải là thành
viên chính thức của đoàn, nên rất nhàn, chỉ phải dự cuộc họp hội ý mỗi ngày vào
buổi tối sau khi chương trình làm việc của ngày kết thúc, ban ngày hoàn toàn tự
do. Ngay hôm đầu, tôi rủ một cán bộ trẻ của Bộ Ngoại thương thông thạo đường
phố Washington DC tranh thủ đi tìm hiểu tình hình tại chỗ. Chúng tôi mặc quần
áo thể dục thể thao, nói trước với bảo vệ của Mỹ và yêu cầu họ phát cho mỗi
chúng tôi một huy hiệu bỏ túi, để họ có thể biết chúng tôi ở đâu và giúp đỡ nếu
cần… Lý do nói với họ: Chúng tôi thích tìm hiểu thủ đô nước Mỹ… Ra cổng sau để
rời khách sạn… Việc đầu tiên là chúng tôi trà trộn vào khách đi đường để len
sát những toán người biểu tình khá đông, mặt đằng đằng, rất giận dữ khi hô khẩu
hiệu và giương cờ, nhưng không ai vượt làn ranh bước xuống lòng đường… Họ đến
từ những địa phương khác nhau ở Mỹ, những giọng nói tiếng Việt cũng khác nhau…
Tôi cố tìm hiểu thái độ của họ.., nghe và biết được điều này điều nọ.., cả cách
thức họ tổ chức biểu tình… Sau đó hai chúng tôi rủ nhau đi xem nghĩa trang
Arlington để hiểu thêm những khía cạnh khác nhau của cuộc chiến tranh Việt Nam
của Mỹ và vấn đề MIA (Missing In Action)… Có lúc chúng tôi kín đáo đứng xem
những người Mỹ đi viếng mộ có thân nhân đã chết trên chiến trường Việt Nam….
Người đi viếng nâng niu những kỷ vật họ mang đi từ nhà, trò truyện với người đã
khuất như thể đang hiện hữu trước mặt… Hôm ấy cũng có một vài gia đình người
Việt đi viếng… Sau đó chúng tôi đi một số nơi khác…
Một kiểu đi dã ngoại như
vậy hiểu thêm vấn đề MIA, biết thêm được nhiều thứ…
Song tại Canberra, chuyện
khó nhất đối với tôi không phải là những cuộc biểu tình và những biểu hiện quá
khích, mà là vấn đề Campuchia!
Tôi nhớ mãi, căng thẳng
nhất là hôm nói chuyện và đối thoại với trường đại học Canberra. Cả thầy giáo
và sinh viên ở đây dứt khoát phản đối Việt Nam trong vấn đề Campuchia, mặc dù
tôi đã giải thích cặn kẽ mọi khía cạnh.
Họ vẫn một mực kết luận: Cứ
cho những gì đại sứ giải thích là sự thật đi, song có hai điều không thể chấp
nhận:
- Tại sao diệt xong Polpot
các ngài không rút quân về, mà tự biến mình từ một nước kháng chiến giành độc
lập trở thành một quyền lực chiếm đóng?
- Úc là một nước yếu hơn
nhiều cường quốc, bất kể kẻ ăn hiếp nào cũng có thể bắt chước Việt Nam dùng
luận điệu cứu nước Úc khỏi cái này cái nọ để xâm lược Úc! Chủ quyền quốc gia và
luật pháp quốc tế sẽ không còn nghĩa lý gì nữa.
Tôi tìm cách kết thúc đối
thoại, vì biết không thể một buổi nói chuyện thế này mà thay đổi nhận thức của
họ được, phát biểu đại ý:
Tôi không muốn áp đặt, song
gợi ý họ nên từ các mối tương quan giữa các nước liên quan đến vấn đề Campuchia
tự đăt ra một số câu hỏi rồi tự tìm câu trả lời, hy vọng họ sẽ hiểu rõ vấn đề.
Tư liệu thông tin và sách báo có thể giúp họ làm tốt việc này, và chắc chắn họ
sẽ tìm được câu trả lời. Những câu hỏi nên đặt ra có thể là:
- Một nước vừa mới ra khỏi
2 cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài mấy thế hệ để bảo vệ tổ quốc mình, có lợi
ích gì mà lại tiến hành ngay một cuộc chiến tranh chống Polpot?
- Tại sao lực lượng Polpot
bé teo lại dám phát động một cuộc chiến tranh chống một nước như Việt Nam đã
thắng cả Mỹ, lại còn dám tuyên bố sẵn sàng hy sinh 2 triệu người Campuchia để
diệt 50 triệu người Việt? Ngông cuồng này phải có một cái gì đó đứng đằng sau
chứ?
- Bàn tay của Trung Quốc
can thiệp và sai khiến Polpot như thế nào? Cái gì đã dẫn Polpot đến chính sách
diệt chủng ở Campuchia?
- Giữa cuộc chiến tranh
Polpot chống Việt Nam và cuộc chiến tranh của Trung Quốc 17-02-1979 chống Việt
Nam để căng Việt Nam ra 2 đầu mà đánh có mối liên quan gì không?
- Vân vân…
Sau cuộc đối thoại này,
chính tôi cũng học được nhiều điều, nhất là hiểu rõ hơn cách nhìn của người
nước ngoài đối với những vấn đề của nước ta.
Việc vận động phía Úc sớm
tiếp Bộ trưởng ta phải tuần tự vi tiến, song song với những gì đang diễn ra
trong khu vực, không thể tách rời đi nhanh được.
Khoảng 3 tháng sau tôi cũng
đi tới kết luận về chuyện anh S.
Cách làm của tôi đại thể là
trao đổi trong toàn cơ quan trên từng khía cạnh khác nhau trong từng cuộc họp
khác nhau, để tìm hiểu xem mọi người trong cơ quan nghĩ gì và kết luận như thế
nào về việc anh S xin về nước gấp. Mọi người đều được phép nói suy nghĩ của
mình. Tôi cũng có những cuộc trao đổi riêng rẽ, tìm hiểu những mối quan hệ
trong nội bộ giữa các nhân viên với nhau, mối quan hệ của ĐSQ và của một số
nhân viên với bên ngoài, đánh giá một số sự việc, một số việc ĐSQ đã làm… Song
từ đầu đến đuôi tôi giữ riêng cho mình mọi nhận xét, đánh giá của tôi về ý kiến
của từng người.
Có mấy khía cạnh làm tôi
mất nhiều tâm trí đắn đo: Tình hình nghiêm trọng đến mức nào mà anh S phải xin
thôi chức và xin về nước gấp như vậy? Cái gì tạo ra sự nghiêm trọng này? Lý do
gì mà anh S dứt khoát yêu cầu tôi phải tiễn vợ chồng anh đến tận Sidney? – bởi
vì từ đấy là bay thẳng về Việt Nam, không phải stop over ở đâu nữa trên đất Úc…
… …
Nếu tôi kết luận sai, dù
theo cách nào, trách nhiệm của tôi cũng rất lớn: Hoặc là để lọt một tội ác phá
hoại nào đó chống lại đất nước, hoặc sẽ gây ra cho anh S một oan khiên không
cách gì gỡ được!
Độ hai tháng tôi đã đi tới
kết luận cuối cùng, song phải mất thêm một tháng nữa đánh vật với kết luận của
mình, tôi mới chính thức điện mật báo cáo về nước, nội dung:
Nguyên nhân của sự việc là
yếu kém của anh S và hư hỏng của một số người trong cơ quan muốn hại anh S,
không có bàn tay địch nào ở đây cả!... Đề nghị làm một số việc có liên quan để
giải quyết… …
Đương nhiên tôi không cho
cơ quan biết nội dung điện mật này, mà chỉ đặt vấn đề mọi người phải sửa chữa
khuyết điểm của mình, có trách nhiệm cùng nhau làm cho cơ quan lành mạnh và
hoạt động hiệu quả cao nhất.
Điện gởi đi, tôi thấy nhẹ
cả người.
Thêm một số thời gian nữa ở
Úc, tôi tính đến làm một số việc lâu dài hơn, trong đó có việc đi tìm mua nhà
mới cho ĐSQ ta ở Úc, vì nhà đang ở chật quá…
Rồi cái ngày anh Hoảng Bảo
Sơn sang Úc trình quốc thư nhậm chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam
cũng đến, công việc đầu tiên là xúc tiến chuẩn bị cho chuyến đi thăm Úc chính
thức của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch.
…
Từ Úc trở về Bộ Ngoại giao,
loanh quanh thế nào Bộ lại bố trí tôi về làm vụ trưởng Vụ châu Á 2, gồm các
nước Lào, Campuchia và 6 nước ASEAN, một vùng trời đất chưa bao giờ là lãnh địa
chuyên sâu của tôi. Việc thay đổi như vậy xảy ra như cơm bữa, vì mọi guồng máy
của Bộ không được dừng hoạt động dù chỉ là một phút, nhưng cán bộ chủ chốt luôn
luôn thiếu…
Đối với tôi, rủi mình là
lính mới tò te của vùng này, may là lại thêm một không gian mới cho mình chinh
phục.
Khoảng giữa năm 1989, tôi
được bổ nhiệm làm đại sứ tại Thái Lan. Tôi hiểu đây là một nhiệm vu cam go. Bởi
vì quan hệ Việt Nam – Thái Lan vốn dĩ phức tạp suốt toàn bộ thời kỳ ta kháng
chiến chống Mỹ, sau chiến tranh vẫn là nước tuyến đầu (front state) của Mỹ chống
Việt Nam, song tình hình Thái Lan lúc này đang có những biến chuyển biến mới
năng động, phức tạp…
Được nhận nhiệm vụ đại sứ ở
Thái Lan, thật ra chính tôi cũng bị bất ngờ, vì Bộ đã dự kiến bổ nhiệm tôi làm
đại sứ tại Nhật, song có lẽ vì quan hệ kinh tế của ta với Nhật rất quan trọng
nên sau đó Bộ cử anh Võ Văn Sung, nguyên đại sứ của ta ở Pháp. Tiếp nữa, Bộ dự
kiến bổ nhiệm tôi đi làm đại sứ ở Cộng Hòa Liên Bang Đức, đơn giản đây là lĩnh
vực chuyên sâu của tôi, nhưng sau đó lại bổ nhiệm anh Võ Hồng Phúc…
Vùng trời thuộc nhiệm vụ
tôi được giao mới quá, tôi phải dành khoảng 3 – 4 tháng chuẩn bị, gần như học
từ đầu, nhất là học những thứ chưa biết mà nhiệm vụ cần, gặp nhiều cơ quan liên
quan các ngành khác nhau – cả bên an ninh và quân đội.., đi đến nhiều nơi trong
cả nước để tìm kiếm thông tin và nắm những vấn đề cần thiết, trong đó có cả một
số bà con Việt kiều đã về sống trong nước…
Vào lúc này quá trình tìm
giải pháp cho vấn đề Campuchia ở giai đoạn gai góc nhất, Trung Quốc chống ta
quyết liệt (và sau đó diễn ra Hội nghị Thành Đô); Mỹ (có lẽ vẫn cay cú) vào hùa
với Trung Quốc làm nhiều chuyện khó dễ với ta trong quá trình bao vây cấm vận,
mặc dù ta tìm mọi cách bầy tỏ thiện chí – nhất là trong vấn đề MIA (Missing In
Action), kinh tế trong nước tuy bắt đầu đi vào thời kỳ đổi mới nhưng vẫn còn
rất nhiều khó khăn, bỡ ngỡ…
Tôi hiểu được tầm quan
trọng nhiệm vụ phải làm và những khó khăn, nên rất cẩn trọng...
Chuẩn bị xong, tôi mệt phờ.
Xin phép Bộ nghỉ một tuần, tĩnh tâm.
Tôi gạt công việc sang một
bên, thăm quê và đến một số nơi gia đình tôi đã sống thời kháng chiến chống
Pháp… Trong đó có một nơi đến rất thiêng liêng trong tim tôi: Thăm trường học
cũ, nơi tôi 40 năm về trước đến nhập học, rồi từ đấy ra đi, nhưng không kịp từ
biệt mối tình đầu trước khi bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ…
Đứng trên mảnh đất trường
xưa, tôi thầm trong lòng nói lời tạ từ muộn mằn…
Hôm nay về cội nguồn
Của một thời trai
tráng
Lòng dạ sao bâng
khuâng
Những ngày xưa bật
sáng…
…Đây rặng tre năm nào
Soi mình bên sông Thao…
…Nơi đây, ngôi trường
cũ
Tiếng trẻ đùa lao
xao…
…Tim anh đau thắt lại
Nơi đây anh gặp em
Nơi đây chia tay em
Không một lời tiễn
biệt
Nụ cười vương trên
môi
Đuôi mắt giọt lệ rơi…
…Ngày ấy năm nao nhỉ…
Còn nhớ chăng – ngày ấy năm
nao…
Chẳng ai nghe anh hỏi
Một nỗi buồn chơi
vơi…
…Còn đâu ngôi nhà cũ
Không tìm em bằng lời
Tìm em trong tim tôi…
…Ngày ấy năm nao nhỉ…
Anh bước tiếp tìm em
Tự tìm mình thưở
trước
Bạn bè xưa xa vắng…
Nhưng trang sách còn
đây…
Lời thầy giảng còn
đây…
…Một tiếng chim thánh
thót
Rơi xuống từ cao xanh
Ngỡ tiếng em, anh gọi
Không một lời đáp lại
Cánh chim vụt bay
nhanh…
Bỏ anh giữa rừng
xanh…
…Ngày ấy năm nao nhỉ…
Tay chung tay dựng
trường
Rau xanh làm chung
luống
Học về chung lối xóm
Sớm khuya chung đĩa
đèn
Trời nắng mưa chung
nón…
…Giữa buổi học chưa
tan
Anh lên đường nhập
ngũ
Tràng pháo tay tiễn
đưa…
Tạ từ tình thầy bạn
Giữa hàng quân vẫy
em…
…Ngày ấy năm nao nhỉ…
Xa xa tiếng súng dồn…
…Lý trí mách bảo anh
Ra đi sẽ mất em
Tim anh như muốn vỡ
Nhưng nước mất nhà
tan
Sẽ mất em lần nữa…
Bàn tay anh nắm chặt
Chân in sâu trong
đất…
…Biết chăng em ngày
ấy…
Ngày đầu tiên ra trận
Bom đạn ập xuống đầu
Vùi anh trong cát sâu
Ba-lô cháy một nửa…
- Nhưng tim anh vẫn một
nhịp
Đập cho em và anh…
…Bao dặm trường gian
khổ
Ốm đau quật xuống
đường
Anh vẫn ngước nhìn
lên
Tìm ngôi sao trên
trời
Lấy thêm sức đi tiếp
Sao lung linh đáp
lời…
…Đường đời sao kể siết
Tháng ngày sao đếm
được
Chiến tranh tiếp chiến
tranh
Đắng cay nhuốm tóc
xanh
Nhưng tình xưa vẫn
trẻ
Số phận thử lòng anh
Càng gần càng xa mãi…
…Ngày về anh gặp em -
Nào ngờ - ngày vĩnh
biệt…
Khói hương sao lưu
luyến
Như tóc em vương bay…
…Ôi em ơi…
Khôn thiêng xin níu
tay…
…
…
…
…Ở nơi nao chín suối
Biết chăng anh về đây…
Ngàn nỗi đau chôn
chặt
Đời trên vai thêm
nặng…
…Mấy chục mùa én bay
Dệt vần thơ trên trời
Một bước đi
Một hơi thở
Là một vần gieo tiếp
Gửi cho ai… Ai biết…
…
Lặng lẽ một mình anh
Ấp ủ vần thơ ấy
Như tình xưa riêng
anh
Giữ cho em thuở nấy…
…
…Hôm nay anh về đây
Không nhành hoa viếng
tặng
Chỉ vần thơ mang nặng
Nói lòng anh với em
Nói lòng mình với anh
Những vần thơ chắt chiu từ
lẽ sống…
(Hết.
Âu Lâu / Yên Bái, thu năm
1989)
…Quan chức Thái Lan đầu
tiên tôi gặp khi đặt chân đến Bangkok là quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao
Sidthisavesthila, một người có quan điểm cực hữu.
Làm xong mọi nhiệm vụ ban
đầu và việc chuẩn bị cho trình quốc thư, tôi nói với quốc vụ khanh:
- Thưa ngài, bây giờ tôi có
một việc riêng cá nhân muốn nói.
- Xin mời ngài đại
sứ.
- Vâng, xin cảm ơn. Tôi
biết ngài xưa nay là người có quan điểm chống Việt Nam, khá quyết liệt. Nhưng
đấy là chuyện quốc gia – quốc gia. Song riêng tôi vẫn hàm ơn ngài rất
lớn.
- Xin lỗi, đại sứ nói gì
tôi chưa hiểu!?
- Xin thưa, câu chuyện là
thế này. Khi thủ tướng Chatichai lên nhậm chức, muốn thay đổi quan hệ với Việt
Nam, nên thủ tướng đã ngỏ ý cho Việt Nam vay 2 triệu USD theo lãi suất ưu đãi
để mua ngô của Thái Lan mà Việt Nam đang cần. Hai bên đã đàm phán xong xuôi cho
việc này, nhưng phút cuối cùng chính ngài đã phản đối quyết liệt!
- Vâng, tôi biết, câu
chuyện đúng là như thế.
- Tôi nằm trong phái đoàn
đi Bangkok ký thỏa thuận này, sáng mai chúng tôi lên đường, thì buổi tối nhận
được điện của đại sứ Lê Mai (người tiền nhiệm của tôi) cho biết: Ngài nhất định
phản đối. Dự án này thất bại. Chuyến bay của chúng tôi bị hủy. Song không may,
máy bay lẽ ra chở đoàn chúng tôi sáng hôm sau đã bị rơi tại Bangkok, đoàn chúng
tôi thoát nạn, nhưng số hành khách thế chỗ và toàn bộ hành khách khác đều tử
nạn… Tôi hôm nay còn sống để vài hôm nữa sẽ hân hạnh được trình quốc thư lên
Quốc vương của ngài, và hôm nay có dịp trực tiếp cảm ơn riêng cá nhân ngài về
may mắn này.
Quốc vụ khanh đang ngồi,
đột nhiên đứng dậy, nắm lây tay tôi, vừa ôm chầm lấy tôi, vừa vừa xuýt xoa –
một phản ứng rất tự nhiên giữa người với người!
- Ôi mừng cho đại sứ, song
thật vô cùng đáng tiếc cho những người không may!.. Tôi xin vô cùng chia
buồn…
Lời cảm ơn của tôi là đòi
hỏi của chính tôi và chân thật. Song tình cảm thật giữa Sidthisavesthila và tôi
với nhau, mau chóng làm cho hai chúng tôi trở nên bạn thân của nhau trong suốt
nhiệm kỳ công tác của tôi ở Thái Lan cũng như mãi về sau này, khi ông ta làm cố
vấn cho tập đoàn Amata – chủ đầu tư khu công nghiệp Đồng Nai hiện nay.
Cũng phải nói thêm, vì được
hưởng sự quý trọng của Sidthisavesthila, nên tôi tiếp cận với Bộ Ngoại giao nói
riêng và các cơ quan khác của Thái Lan nói chung khá thuận lợi.
Có một trục trặc lễ tân
nhỏ.
Theo tục lệ ngoại giao, đại
sứ mới đến phải đi chào xã giao các đại sứ đã đến trước. Người phó của tôi
trong sứ quán và cán bộ phụ trách lễ tân, nhất định khuyên tôi không nên đến
chào xã giao đại sứ Trung Quốc. Lý do: Đại sứ Lê Mai đã đến chào xã giao đại sứ
này, nhưng ông ta không thèm chào đáp lễ, thái độ đối với ta lúc nào cũng khinh
khỉnh. Cũng dễ hiểu, vì đây là thời kỳ quan hệ Việt – Trung rất căng
thẳng.
Tôi quyết định: Vẫn cứ lên
lịch cho tôi đi chào đại sứ Trung Quốc.
Một hai tháng trôi qua,
không có hồi âm, mặc dù tôi đã đôi ba lần gặp bắt tay và nói chuyện với đại sứ
Trung Quốc trong một số hoạt động của đoàn ngoại giao - đương nhiên ông này vẫn
rất trịch thượng.
Bị sứ quán ta thúc rát quá,
cuối cùng đại sứ Trung Quốc cũng phải xếp lịch hẹn tiếp tôi thăm xã giao tại
nhiệm sở của ông ta.
Trong những năm trước, tôi
đã đôi ba lần được nếm cái võ bất lịch sự này của Trung Quốc rồi (trong đó có
thái độ trịch thượng của lãnh đạo Trung Quốc đối với lãnh đạo ta, song trường
hợp tệ nhất mà tôi cũng là nạn nhân có lẽ là thái độ của Trung Quốc đối xử với
đoàn đại biểu Đảng do Ủy viên Bộ Chịnh trị Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy
Trinh dẫn đầu đi dự đại hội VII của ĐXHTN Đức – trên đường dừng chân tại Bắc
Kinh, lúc đó đang cao trào của cách mạng văn hóa, với những chuyện tôi không
muốn kể lại…), ngoại giao có cả những chuyện tiểu nhân như vậy…
Tôi đến ĐSQ Trung Quốc đúng
giờ, được lễ tân trịnh trọng mời vào phòng khách, mang trà nước bánh kẹo rất
lịch sự ra tiếp, với lời xin lỗi: Đại sứ đang nói chuyện đường dài với trong
nước, xin quý khách chịu khó chờ.
Tôi nhìn đồng hồ, 15 rồi 20
phút, rồi hơn nữa… vẫn chưa thấy chủ nhà ra tiếp. Tôi vẫn bình thản uống nước,
hút thuốc lá, chờ…
Cuối cùng thì chủ nhà cũng
ra tiếp, với lời xin lỗi này nọ, với ngôn ngữ Việt rất thạo (bây giờ tôi không
nhớ rõ tên ông đại sứ này, song nói tiếng Việt thông thạo không kém đại sứ
Trương Đức Duy ở Việt Nam)…
Tôi nghe, rồi thong thả,
rành mạch:
- Rất cảm ơn đại sứ đã dành
thời giờ tiếp tôi, mặc dù cán bộ của tôi cho tôi biết người tiền nhiệm của tôi
đến chào đại sứ, nhưng đại sứ đã không đến đáp lễ. Chờ lịch tiếp của đồng chí
khá lâu, cán bộ của tôi đòi hủy, tôi không cho hủy. Chờ lâu thế nào tôi vẫn
quyết chờ, không thay đổi. Vì quan hệ giữa hai nước và hai đảng của chúng ta
đòi hỏi tôi phải làm như vậy. – đến đây tôi dừng lại.
Chủ nhà bị bất ngờ về sự
thẳng thắn của tôi. Mãi mới đối đáp được mấy câu gượng gạo.
Tôi chủ động chuyển chuyện
xã giao sang chuyện trao đổi một số vấn đề của Thái Lan, vừa để cho không khí
trở lại bình thường, cũng vừa muốn thăm dò thêm thái độ của Trung Quốc, nêu vài
ý kiến của tôi, hàm ý tôi nghĩ khác chủ nhà…
Từ sau đó trở đi tôi không
thấy sự trịch thượng nữa, thậm chí có lúc là sự vồn vã hơi quá, nhưng có lý do.
Đấy là lần xảy ra đảo chính, tướng Chatichai bị hất, tướng Suchinda lên làm thủ
tướng ngày 23-02-1991.
Hôm ra mắt các đại sứ,
Suchinda rất vồn vã, tiếp mọi người ngay trong phòng khách khá hẹp bên cạnh
phòng làm việc của mình, khách phải ngồi cả trên những ghế đệm dài mới đủ chỗ…
Suchinda chủ động ngồi trên ghế dài, dành các ghế lẻ cho khách, mời một số đại
sứ ngồi cùng ghế dài với mình cho thân mật. Đại sứ Trung Quốc đến ngồi ngay bên
cạnh Suchinda, còn những đại sứ khác đang cố tìm một chỗ xa xa hơn, vì sự dè
dặt cần thiết… Tôi thấy cũng phải dè dặt như vậy, vì tình hình còn diễn biến,
chưa biết sẽ thế nào. Nhưng đại sứ Trung Quốc rất nhiệt tình với Suchinda, nói
tiếng Anh mời tôi ngồi cùng. Tôi cảm ơn và đáp lại:
- Thanks, the Veterans
first please! (Cảm ơn, trước hết xin nhường các đại sứ cựu trào!).
…
…
…Sống được vài tuần, tôi
thấy khí hậu Thái Lan khá nóng, cả ĐSQ chỉ duy nhất phòng ở của vợ chồng tôi có
máy điều hòa. Phần thì tôi thấy sự phân biệt này bất tiện quá, phần thì ái ngại
cho các nhân viên của mình phải sống khổ. Đơn giản vì Bộ Tài chính quy đinh như
vậy. Tôi hỏi người phó của tôi ngân sách Bộ cấp cho hàng năm có chi hết không?
Được biết là chi không hết, dồn lại để khấu vào ngân sách năm sau. Ngay tức
khắc tôi quyết định lắp máy điều hòa cho tất cả các phòng ở của nhân viên.
Người phó và cán bộ tài vụ của ĐSQ rất sợ, vì như thế sẽ trái và sẽ bị kỷ luật.
Tôi quyết định cứ làm, mọi tội tôi chịu. Đương nhiên trong nhà có điện đi điện
về chất vấn này nọ, song việc đã rồi, tôi cũng không bị làm sao cả.
Thời gian công tác ở
Bangkok, tôi được trong nước tặng cho cái nickname “đại sứ bán sứ quán”, có lẽ
tếu và không thân thiện lắm. Lý do là tôi đã đề nghị về nước bán trụ sở ĐSQ để
mua một khu đất rộng hơn, tiện đường vào trung tâm thành phố và đỡ tắc xe hơn,
tiền thu được hoàn toàn đủ cho xây dựng một khu đại sứ quán hoàn chỉnh của Việt
Nam, chỗ làm việc và chỗ ở của toàn bộ các gia đình cán bộ công nhân viên đều
khang trang, chính quy cho một quy mô đại sứ quán lớn hiện đại. Đề nghị bị bác
và tôi được thưởng cái nickname.
Còn một quyết định cá nhân
nữa: Cán bộ nhân viên sứ quán đông, vì hồi ấy Bangkok là cửa ngõ của nước ta ra
thế giới. Nhưng rất thiếu chỗ ở. Vợ chồng tôi được cơ quan giao cho 1 buồng cả
ở và làm việc, thế là ưu đãi số một rồi! Nhưng vợ tôi suốt ngày cứ phải chạy
quanh trong cơ quan, vì không chịu nổi khói thuốc lá của tôi. Một câu hỏi trêu
tôi:
- Chọn vợ hay chọn thuốc
lá?
- Thà chết còn hơn, chọn
vợ!
Thế là ngay hôm sau tôi bỏ
thuốc lá. Quyết định một lần trong giây lát, nhưng thực hiện suốt đời cho đến
hôm nay, sau đúng 40 năm tôi say sưa với nó!
Tôi bắt đầu hút thuốc lá
khi bước vào trung học, vì xa nhà và vì chẳng có gì hơn để bay bổng với nhau
tuổi học sinh. Tụi tôi bắt đầu từ hút thuốc lá tự trồng, lúc nào xin ở đâu được
tý mật ong tẩm vào nữa, thì tâm hồn chúng tôi ngồi tất cả với nhau trên cành
cây. Có giấy báo thì cuốn thuốc lá bằng giấy báo. Có lúc là giấy pelure (đánh máy
chữ), thậm chí có lúc lá nó cuốn nó!.. Ngón chỏ và ngón cái cuộn thuốc lúc nào
cũng vàng kịt…
Hôm nay tôi mới dám nói, bỏ
thuốc lá không khó, miễn là mình có cái gì quý hơn nó phải chọn!..
Với cương vị đại sứ ở một
nước có rất nhiều điều liên quan sâu sắc đến nước ta, tôi hăm hở bắt tay vào
công việc. Ngay lập tức, tôi thấy nhiều việc muốn làm, nhiều điều muốn tìm cách
tiếp cận khác… Nhất là tôi bị thôi thúc bởi suy nghĩ: Không thể để cho hết nước
này đến nước khác trong thiên hạ mọi thời đại cứ chiếu tướng nước ta mãi… Càng
không thể chịu thua kém Thái Lan… Phải tìm ra một cái gì khác, con đường khác…
Trước hết phải xóa cái nghèo và lạc hậu của đất nước…
Trong suốt một thập kỷ, kể
từ sau khi tôi ở Bonn về cuối những năm 1970s cho đến khi tôi đi làm đại sứ ở
Thái Lan mùa thu 1989, tôi hầu như dành hết tâm sức cho nghiên cứu mối quan hệ
toàn diện của nước ta với thế giới bên ngoài, những vấn đề kinh tế và phát
triển đất nước phải giải quyết, từ đó tôi nghĩ nhiều đến phải tìm một lối đi
khác cho đất nước. Đòi hỏi này ngày đêm theo đuổi tôi cho đến hôm nay (2018) –
tôi thấy không phải xấu hổ để viết ra tại đây những dòng này! Tôi âm thầm làm
việc, vì là các vấn đề của đất nước quá tế nhị, tôi rất dễ bị quy kết khủng
khiếp… Lúc này lúc khác, ngay trong khi tôi còn đang ở Bangkok, đã có đôi điều
trong nước nói về tôi khá nặng nề, yêu cầu phải xem lại đại sứ này!.. … …Từ khi
nghỉ hưu, đã có vài đồng nghiệp nói với lãnh đạo đảng và nhà nước tôi là loại
“xét lại”… Chưa nói đến cách tôi phát biểu hay viết thường khá gay gắt, khiến
nhiều người khó chịu…
Thời kỳ làm đại sứ ở Thái
Lan, dù chỉ khoảng 3 năm thôi, song là thời kỳ tôi bắt đầu có nhiều suy nghĩ
rất quyết liệt với những chủ đề nêu trên. Đầu óc lúc nào cũng nóng lên: tìm cái
khác, con đường khác.., gần như là điên rồ... Vì tôi yêu tổ quốc mình, có thế
thôi!
Ví dụ, chỉ sau khi đến Thái
Lan vài tháng, tôi thấy ngay cái sai của nước ta cứ một chiều phỉ báng chính
sách ngoại giao cây tre – gió chiều nào ngả theo chiều nấy của Thái Lan là thực
dụng, không có lập trường cách mạng và rất phản động, là làm tay sai hết cho
nước này đến nước khác! Tôi tự hỏi mình ngay tức khắc: Nguyên nhân nào khiến
Thái Lan là nước duy nhất trên lục địa Đông Nam Á đến nay không nước đế quốc
nào chiếm được làm thuộc địa?
Xin hãy nhìn lại:
Thực dân Anh và thực dân
Pháp đều dòm ngó rất sớm quốc gia này. Họ đã thành công rất sớm ở Đông Dương, ở
các nước đảo ven Biển Đông, nhưng không thể đụng chạm vào độc lập của Thái Lan!
Nguyên nhân chính là chính quyền nhà vua Thái thời đó đã khai thác thành công
mâu thuẫn giữa 2 đế quốc Anh – Pháp, nhờ đó vô hiệu hóa được tham vọng của cả 2
muốn thôn tính Thái Lan! Chiến tranh thế giới II cũng lan tới Thái Lan, nhưng
Nhật chưa đô hộ Thái Lan được lấy một ngày! Càng đáng suy nghĩ hơn nữa: Thái Lan
trở thành đồng minh của Nhật trong chiến tranh thế giới II. Nhưng trước khi
Nhật thua hẳn, chỉ thông qua cuộc đảo chính duy nhất ngày 01-08-1944 lật đổ
chính phủ thân Nhật, ngay hôm sau lập tức Thái Lan lại trở thành đồng minh của
phương Tây trong chiến tranh thế giới II!.. Từ sau chiến tranh thế giới II đến
hôm nay, cũng chưa có một quả bom hay một viên đạn nào của nước ngoài nổ trên
đất Thái Lan, mà chỉ có từ đây bom đạn của nước ngoài đem đi đánh các nước
khác, trước hết là Việt Nam, Thái được trả công bằng tiền và bằng nhiều thứ lợi
khác! Chủ nghĩa Mao-ít cũng không len vào được Thái Lan, mặc dù kinh tế Thái
hầu như các tập đoàn lớn người Thái gốc Hoa chi phối, phong trào cộng sản ở
Thái bị diệt sạch!..
Vậy đánh giá chính sách
ngoại giao cây tre của Thái như thế nào? Bằng một thứ đạo đức rất đẹp nhưng mơ
hồ, hay bằng lợi ích quốc gia của chính nước Thái? Hay là bắt người Thái Lan
phải đứng trên lập trường của Việt Nam đánh giá chính sách đối ngoại của
họ?
Một câu hỏi khác dày vò tôi
không kém: Thái Lan đã mở cửa với chủ nghĩa tư bản và các nước thực dân phương
Tây, từ 1818 trở đi, đã lần lượt ký kết những hiệp đinh bang giao và buôn bán
với Bồ-đào-nha, Hà Lan, Anh, Pháp, Mỹ… - nghĩa là đi trước cải cách của Thiên
Hoàng Minh Trị tại Nhật gần 60 năm (được bắt đầu thực hiện từ 1877). Thế nhưng
Thái Lan lại không thể tạo ra sự phát triển như của Nhật Bản. Cho đến hôm nay
(2018) cũng vậy! Và không biết đến bao giờ Thái Lan mới có thể trở thành một
nước tư bản phát triển!?..
Tại sao?
Tìm hiểu, cuối cùng tôi
chẩn đoán: Tại căn bệnh Thái Lan! (tên căn bệnh này do tôi đặt ra, đúng / sai
thế nào còn phải chờ cuộc sống kiểm nghiệm). Vào dịp thuận tiện sẽ nói rõ hơn,
vì dễ đụng chạm đến những vấn đề quá nhạy cảm của Thái Lan (vấn đề
lese-majesty). Nhưng có thể thấy ngay sờ sờ trước mắt: Từ khi Thái chuyển sang
chế độ quân chủ lập hiến năm 1932 đến năm 2018 này, trung bình cứ 3 đến 5 năm
(có lúc chưa đầy 2 năm) một cuộc đảo chính quân sự thì không thể nào ra đời một
Thái Lan công nghiệp hiện đại và dân chủ được! Trong khi đó quá trình công
nghiệp hóa ở Hàn Quốc chỉ đòi hỏi 30 năm (1960 – 1988).
Và riêng tôi thực sự lo:
làm sao nước ta có thể phòng ngừa được cho mình căn bệnh Thái Lan. Hôm nay tôi
vẫn lo như thế cho nước ta!
Phải chăng hôm nay Việt Nam
mấy chục năm nay đã mắc căn bệnh nói trên rồi, nhưng ở dạng mới: Căn bệnh nước
không chịu phát triển! (Lý Quang Diệu). Tên nước của căn bệnh này là Việt Nam –
đại thể như cúm H5N1 là Thái, H5N2 là ta – song H5N2 hình như còn tồi tệ hơn
H5N1?
Nêu khái quát như thế về
Thái Lan tại đây, tôi muốn trình bầy tại sao tôi bị thôi thúc ghê gớm phải tìm
một con đường phát triển khác cho nước ta khi tôi với tư cách là đại sứ đặt
chân tới Bangkok! Có thể nói đây là thời kỳ tôi có nhiều suy nghĩ gần như điên
rồ, vì sốt ruột quá, đất nước mình khổ lâu quá.., tự tôi cũng biết thế và cứ
phải tìm cách tự kiềm chế mình.
Thậm chí trong đầu, có lúc
tôi tự đánh vật với mọi trí tưởng tượng có thể.., chỉ để nghĩ xem có thể làm
gì!..
- Có một con đường hình
thành một nước Việt Nam trung lập không? – Suy nghĩ này đổ ngay trong một giây,
vì tôi hiểu trung lập là mục tiêu; còn trí tuệ, lực và phương tiện để thực hiện
nó thì nước ta hoàn toàn tay trắng. (Sau này tôi có nêu lại suy nghĩ này trong
tiểu thuyết “Dòng đời”, xuất bản năm 2006).
- Có thể tạo ra một ASEAN
xanh được không? – với nghĩa hòa bình, dân chủ, tiến bộ và phát triển, đi với
tất cả mọi cường quốc và toàn thế giới, nhưng không cho phép bất kỳ một thế lực
cường quốc nào thao túng khu vực này... Câu trả lời chứa tới vài trăm con zero,
trong đó Việt Nam cũng chiếm vài chục zero… Vì bản thân Việt Nam như thế này,
thì không có cách gì có thể “xanh” được… Lúc này Việt Nam vẫn chưa gia nhập
ASEAN và Mỹ còn đang bao vây cấm vận nên càng khó! (Sau này, khi Việt Nam đã
gia nhập ASEAN, có lần tôi đã nêu với bộ trưởng Phạm Gia Khiêm ý tưởng “xanh”
này, nhưng không được bắt nhời! Có thể tôi bị coi là thẳng điên?)…
- Có thể biến Cam Ranh
thành một áo giáp sắt bảo vệ nước ta được không? Hiển nhiên một áo giáp sắt như
thế vào thời kỳ sau chiến tranh Việt Nam của Mỹ, sau chiến tranh của Polpot
đánh ta, sau chiến tranh TQ đánh ta 17-02-1979 và đã chiếm các đảo của ta 1988
(nghĩa là thời kỳ từ thập kỷ 1980s,1990s trở đi) là một tưởng tượng điên rồ:
Một cảng vừa quân sự và có thể cả vừa kinh tế cho cả thế giới sử dụng và phải
trả tiền thuê cho chủ nhà! Bằng cách đó có lẽ không ai đụng được đến ta và sớm
rút ngắn được sự căng thẳng của thời kỳ hậu chiến! (Tôi đã có dịp trao đổi
riêng với một vài bậc đàn anh trong nhà và bạn chí cốt khi họ đi công tác ghé
qua Bangkok về tưởng tượng điên rồ này, người thì lắc đầu, người thì hỏi “Mày
có muốn mất đầu không?”, có người nói hẳn tôi là thằng điên! Những năm sau này
có dịp gặp nhau chúng tôi vẫn nhắc lại với nhau kỷ niệm này…)[1]
- Vân vân…
Nghĩ huyên thuyên trời đất
gió mây như thế, song thật ra chỉ xoay quanh câu hỏi có cách nào thay đổi vị
thế nước mình ở vị trí địa đầu không thay đổi được của lục địa này!? Lại thêm
sát nách cái nước láng giềng khổng lồ!..
Tháng 2-1990, sản phẩm đầu
tiên của tôi là gửi về nước bài “Bàn về con đường phát triển kinh tế nước ta”,
đăng trên tạp chí Nghiên cứu Kinh tế trong 2 số (số 173 tháng 2-1990 và số 174
tháng 4-1990). Bài viết này thực ra là sản phẩm tôi gặt hái được thời học và
làm kinh tế trước đó – khi tôi là vụ trưởng Vụ kinh tế của Bộ Ngoại giao, được
viết ra với sự kích thích từ những gì ở Thái Lan đập vào mắt tôi qua nghiên cứu
sách báo và trong những dịp tìm hiểu Thái Lan. Nội dung chủ yếu của bài viết
này là đánh giá thực trạng kinh tế yếu kém của đất nước, trình bầy mọi thông
tin, tình hình lý lẽ để đi đến kết luận: Đất nước phải dám lựa chọn sự phát
triển của mình phù hợp với xu thế và sự phát triển của kinh tế thế giới, với sự
kiên định tinh thần đổi mới của Đại hội VI: mọi người được tự do làm ăn theo
luật pháp, bắt đầu từ tìm cách giải phóng mọi tiềm năng của đất nước, tách quản
lý hành chính ra khỏi quản lý kinh tế (lúc này tại một số bài khác tôi đã gọi
đấy là yêu cầu xóa bỏ cơ chế “chủ quản”, được trình bầy đầy đủ hơn năm 1994,
trong tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 198), chiến lược công nghiệp hóa như đang
làm là sai, rất tốn kém và không hiệu quả, phải chuyển sang lấy thị trường thế
giới làm đối tượng chứ không phải làm cái gì ta có và ta muốn, kinh nghiệm của
một số quốc gia… Tuy không được rõ nét lắm – có thể vì trình độ có hạn, và đồng
thời cũng phải tự bảo vệ, trong thời kỳ này tôi đã bắt đầu nhấn mạnh nguyên
nhân thất bại của công nghiệp hóa và của các chiến lược kinh tế là không có một
nhà nước lẽ ra phải có để vận hành: Nhà nước pháp quyền của kinh tế thị
trường.
…
Đồng thời lúc này tôi cũng
có một số bài bàn về những vấn đề chiến lược phát triển của đất nước đăng trên
tạp chí Quan hệ Quốc tế của Bộ Ngoại giao: Đề cập đến “Cuộc chạy đua vào thế kỷ
21”, đặc biệt là giữa Liên Xô và Mỹ nói riêng, và giữa CNXH và CNĐQ nói chung;
cho rằng cuộc đấu tranh “ai thắng ai?” – chủ yếu sẽ do mặt trận phát triển kinh
tế xã hội quyết định. Vào lúc này cuộc khủng hoảng của các nước XHCN LXĐÂ đã đi
vào thời kỳ dẫn tới sụp đổ bức tường Berlin. Bài viết lưu ý Việt Nam chưa được
chuẩn bị cho cuộc đua này, và thời cơ không của riêng ai, cũng không đợi chờ ai
– cũng có thể trở thành thách thức, nhấn mạnh phải “Gấp rút lấy lại thời gian
đã mất”, nêu lên cần tận dụng sự phụ thuộc lẫn nhau và thấy rõ một số mạnh /
yếu cơ bản của nước ta để phát huy lợi thế so sánh, cần sớm khắc phục yếu kém
thiếu một nền kinh tế hàng hóa, đồng thời phải đẩy mạnh đường lối đối ngoại
thêm bạn bớt thù… (QHQT số 1.1990, số 2.1990).
Ngày 01-05-1990 tôi viết
một báo cáo đầu tiên dài 27 trang, gửi lãnh đạo trong nước (không phải chỉ
riêng cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao), kiến nghị thay đổi hẳn quan hệ của ta với
Thái Lan, mặc dù lúc này ta vẫn coi Thái lan là một front state của Mỹ. Thú
thực là báo cáo phải che chắn lòng vòng để khỏi bị quy kết là “mất lập trường”,
song cốt lõi nói rõ là: Đề nghị biến Thái Lan trở thành một đối tác đồng minh,
vượt qua quan hệ thù địch Việt – Thái thời chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, thực
hiện tồn tại bên nhau, trước hết là cùng hợp tác trong một vùng nhỏ bé của khu
vực và loại bỏ sự kình địch Việt – Thái liên quan đến Lào và Campuchia.
Lồng vào kiến nghị thay đổi
quan hệ với Thái Lan, thực ra tôi kiến nghị thay đổi đường lối và chiến lược
của đất nước trong “tình hình chủ nghĩa xã hội thế giới đã bị đẩy lùi một bước
nghiêm trọng” (trang 26), nhấn mạnh trong khủng hoảng này Việt Nam cũng có cái
mất, cái được (trang 26), song một thời cơ mới đang mở ra.., trong đó có “cái được
lớn nhất là chúng ta (VN) đang tạo ra cho chính mình khả năng thực hiện sự
chuyển biến này” (trang 26-27). Cách nói thì mềm thế thôi, song tôi gửi gắm
thông điệp “Từ nay nước ta không cần phải theo ai nữa! Ta tự quyết định lấy vẫn
mệnh của ta!..” [Hội nghị Thành Đô họp ngày 3&4-09-1990!]. Hôm nay có thể
nói: Giữa lúc quan điểm chính thức của lãnh đạo cho rằng các nước LXĐA sụp đổ
là tội của Gorbachov + Yeltsin + CIA (đến hôm nay, 2018, vẫn còn dai dẳng ý
kiến này), quan điểm nêu trong báo cáo 01-05-1990 của tôi có thể được xem là
phản động!
[Lạy trời, có lẽ nhờ cả
hồng phúc gia tộc nữa, tôi thoát nạn, không bị quy kết hay phải xử lý – cho đến
hôm nay là như vậy!..]
Cũng có thể có một nguyên
nhân rất quan trọng khác đứng về phía tôi: Bộ Ngoại giao hồi ấy nói chung, tiêu
biểu là bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, đại diện cho một trường phái gần với thực tế
cuộc sống – vì phải hàng ngày cọ sát với cả thế giới. Trong đó, hội nghị Thành
Đô là hệ quả của một thời kỳ đấu tranh nội bộ kéo dài rất phức tạp, ít nhất là
từ những năm cuối 1980s. Đây là thời kỳ chiến tranh biên giới chưa hoàn toàn
chấm dứt, Trung Quốc lại vừa mới chiếm thêm 7 đảo và bãi ở Trường Sa năm 1988,
đàm phán giải pháp vấn đề Campuchia bế tắc. Cũng thời gian này các nước LXĐÂ
trên đà sụp đổ.
Ngay từ đầu Bộ Ngoại giao
đã dứt khoát bác bỏ sự can thiệp nguy hiểm của Trung Quốc và đã nhiều lần trình
bầy quan điểm của mình trước khi hội nghị Thành Đô họp. Bộ Ngoại giao cho rằng
mối nguy bành trướng bá quyền rất lớn, phải kiên trì đường lối độc lập tự chủ
của Đảng – trong đó có Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị. Chúng tôi hồi đó sống và
thở trong luồng tư duy này của Bộ Ngoại Giao!.. Chúng tôi thường nói với nhau:
Nghề ngoại giao chúng tôi phải chiến đấu trên 2 mặt trận: Đối ngoại và đối nội.
Thuyết phục đối nội không hiếm khi khó hơn thuyết phục đối ngoại…
Đến hôm nay, riêng tôi vẫn
vô cùng tiếc không thực hiện được việc đánh giá hội nghị Thành Đô trên cơ sở
khoa học, mặc dù anh Dương Danh Dy và tôi rất quan tâm đề tài này, vì thiếu các
tư liệu tin cậy và kiểm chứng được. Anh Hồng Hà, nguyên bí thư Trung ương Đảng
và nguyên trưởng Ban đối ngoại Trung ương ĐCSVN là một nhân vật chủ chốt, được
tham gia hội Thành Đô từ phút khởi thủy đến phút chót, với rất nhiều chi
tiết... Biết vậy, nên trong mấy năm liền trước khi anh Hồng Hà mất, tôi đã vài
lần trực tiếp đề nghị anh Hồng Hà giúp việc này, rất tiếc bị khước từ, câu
chuyện không thành.
Cũng trong thời gian này,
trước khi gởi báo cáo trên (01-05-1990), lấy tư cách cá nhân đảng viên, tôi đã
gửi lãnh đạo đảng nhà nước một báo cáo riêng, trình bầy một số đề nghị thay đổi
đường lối phát triển đất nước, nêu ra yêu cầu ĐCSVN và chế độ chính trị cần đáp
ứng giai đoạn cách mạng mới của đất nước. Nói theo ngôn ngữ hôm nay: Phải cải
cách chính trị triệt để!.. Tôi được một người cho biết thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã đọc, nói sẽ có ý kiến, nhưng phê bình cách tôi đặt vấn đề quyết liệt quá và
chưa thuyết phục… Tôi thừa nhận lời lẽ của tôi nhiều chỗ nghịch tai, vì quá bức
xúc – đúng hơn là quá thẳng.
Tôi rất tiếc không thể tìm
lại được bản sao báo cáo này. Lục lọi các thứ tôi còn lưu trữ được, đều không
thấy. Sự việc chẳng qua là để mất một văn bản có ghi rõ tính thời gian lịch sử
thôi, còn nội dung của thư này tiếp tục được thể hiện trong các báo cáo khác
tiếp theo của tôi và ngày được phát triển thêm của thời sự.
Hay là nội dung báo cáo này
quá nhạy cảm, nên tôi không dám lưu? Tôi không nhớ nổi nữa…
Đọng lại trong tôi của báo
cáo này là lời nhắc nhở của thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi tự răn mình phải giữ
mồm giữ miệng hơn – hình như đây là chỗ yếu của tôi – nghĩa là vẫn còn dại!..
Vì thủ tướng Phạm Văn Đồng vốn hiền hòa mà đã phải nhắc nhở thế, là chuyện
không ổn rồi! – tôi biết!… Còn nhớ được lời nhắc nhở của thủ tướng Phạm Văn
Đồng là tốt đối với tôi lắm rồi.
Tháng 5-1990, tôi gửi một
báo cáo tiếp dài 23 trang (viết xong tháng 04-1990) với danh nghĩa phục vụ Hội
nghi ngoại giao: “Đánh giá lại thách thức và thời cơ”.
Báo cáo này đặt ra câu hỏi
và phân tích tại sao chủ nghĩa xã hội đang bị đẩy lùi, nêu yêu cầu phải nhìn rõ
bản chất những thách thức bên trong của nước ta và những nguy cơ bên ngoài
trong một thế giới phân công lao động thế giới đã thay đổi về bản chất (lúc này
cá nhân tôi chưa rõ lắm khái niệm toàn cầu hóa), nước ta không chỉ có nghèo nàn
lạc hâu mà còn “ngôn ngữ bất đồng” với kinh tế thế giới, cho nên lững thững đi
bộ một mình trên thế giới, đứng bên ngoài con tầu của thế giới!.. Trong một thế
giới đã thay đổi rất sâu sắc mà …nước ta đang phải chiến đấu trên một trận địa
hầu như ta chỉ có sở đoản, lưu ý không thể dựa vào tư duy ý thức hệ tạo ra được
một tập hợp lực lượng mới đất nước đòi hỏi, cần nghiên cứu bản chất 4 cuộc
chiến tranh đất nước vừa trải qua để tránh số phận đất nước bị đối xử như một
quân cờ và luôn luôn là nạn nhân của sự giành giật giữa các cường quốc,.. (tr.9
và 10)”… Báo cáo cảnh báo nước ta đang để mất những thời cơ lớn. Báo cáo kết
luận (1)đất nước phải biết tận dụng lợi thế nước đi sau (trang 15) để sớm có
một chiến lược phát triển mới, (2)phải sớm có một đường lối đối ngoại mới lấy bảo
vệ lợi ích dân tộc làm gốc (trang 20, 21); phác họa sơ bộ một số nội dung của 2
chiến lược mới phải có này, trong đó nêu tầm quan trọng phải vượt lên ý thức hệ
xây dựng quan hệ mới với Lào và Campuchia với tính cách là 2 quốc gia độc lập
có chủ quyền, phải thay đổi chính sách của ta với Thái Lan...
Theo yêu cầu của lãnh đạo
Bộ, tháng 11-1990, tôi gửi một báo cáo 15 trang góp phần tổng kết đối ngoại của
nước ta năm 1990. Đánh giá tình hình của báo cáo đi tới kết luận: “cần đặc biệt
quan tâm xử lý môi quan hệ quốc gia – quốc gia với tất cả các đối tượng trên
thế giới, lấy cân bằng lợi ích quốc gia làm cơ sở… … …sớm đoạn tuyệt với con
đường xin viện trợ và bao cấp, coi kinh tế đối ngoại là mặt trận quan trọng
ngoại giao quyết định nhất…” (trang 7…); và từ đòi hỏi này cần có những thay
đổi đối nội, phải mở rộng sự tham gia của toàn dân vào quá trình này, lưu ý chỗ
nào không thực hiện được như vậy thì đồng nghĩa bỏ trận địa cho cái xấu và sự
can thiệp của bên ngoài…
Báo cáo dành một phần riêng
đánh giá quan hệ Việt – Trung, nhìn nhận Trung Quốc là vấn đề khó nhất của nước
ta và của cả thế giới, “câu chuyện dạy nước ta một bài học” chưa kết thúc, đặt
vấn đề phải tìm cách vượt qua sự thù địch cũng như mọi ảo tưởng ý thức hệ để
xây dựng một quan hệ mới với Trung Quốc chứ không phải “chỉ một chiều chăm sóc
quan hệ hữu nghị Việt – Trung” (trang 9, 10, 11), đừng sợ không liên minh với
Trung Quốc thì mất CNXH, cũng đừng sợ không liên minh XHCN với Trung Quốc thì
nước ta bị cô lập – giả thử nước ta có bị làm sao ai dám chắc sẽ được Trung
Quốc cứu? Không ai có thể thay ta tự bảo vệ tổ quốc của mình… (trang 9), cần
tạo ra tập hợp lực lượng mới trên thế giới, nhưng nhất thiết không đem nước ta
ra “làm hàng rào” hay làm “quân tốt” cho bất kỳ ai… Báo cáo kết luận: “Sẽ không
ai để cho chúng ta được lựa chọn trung lập, mà phải tự chúng ta phấn đấu giành
lấy sự cân bằng này” (trang 10). Xin lưu ý, báo cáo này viết vào lúc hội nghị
Thành Đô 3-4/09/1990 vừa mới bế mạc trước đó gần 2 tháng. Chung quy vẫn cái tội
điếc không sợ súng!
Liên quan đến vấn đề
Campuchia báo cáo của tôi cho rằng “giải pháp đỏ hay xanh” chẳng có ích lợi gì
cho nước ta, mà phải để cho Campuchia tự giải quyết vấn đề của họ, thực sự tôn
trọng quyền làm chủ của họ, đừng để họ kéo ta vào; và ta cũng đừng sợ chịu
tiếng là “mang con bỏ chợ, mà đòi hỏi vấn đề Campuchia phải là trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế chứ không phải chỉ riêng của Việt Nam!
Tôi lưu ý: Những quan điểm
khác nhau trong nước đang gây ra nhiều khó khăn nghiêm trọng, xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải kiên trì, theo quy luật, không thể chủ quan duy ý chí… “nên
kiên định bài học đổi mới của Đại hội VI.., chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, chứ
không phải là phương tiện.” (trang 15).
Ngày 02-08-1990 Iraq phát
động chiến tranh thôn tính Kuwait, ngày 17-01-1991 Mỹ và liên quân phát động
chiến tranh trừng trị Iraq, được Liên hiệp quốc tán thành. Chiến tranh vùng
Vịnh I.
Tôi đứng trước một vấn đề
khó xử: Một số luồng tin báo cáo về nước đánh xong Iraq, Mỹ sẽ quay trở lại
đánh Việt Nam, sân bay Utapao đã mở cửa trở lại cho không quân Mỹ để xúc tiến
mưu đồ này, hải quân Mỹ cũng đang trên đường quay lại đây… Thậm chí còn cho
rằng cuộc đảo chính 23-02-1991 là do Mỹ dàn dựng, đưa Suchinda lên làm thủ
tướng Thái Lan để phục vụ cho chiến lược mở chiến tranh trả thù Việt Nam…
Người gửi tin có luồng đi
riêng, không báo cáo với tôi, song tôi biết nội dung tin gửi về nước. Những gì
tôi nắm được, trái hẳn với luồng tin này.
Tôi đánh giá: Hầu như không
thể có chuyện Mỹ quay lại đánh Việt Nam một lần nữa, đơn giản là Mỹ đang bị hút
vảo những vấn đề khác quan trọng hơn đối với Mỹ, nhất là sự kiện Kuwait bị thôn
tính rất nghiêm trọng đối với thế chiến lược của Mỹ ở Trung Đông, bây giờ Đông
Nam và vấn đề Việt Nam không còn là câu chuyện nóng đối với Mỹ. Hơn nữa từ sau
thỏa thuận Thượng Hải 1972, rồi sau cuộc gặp Đặng Tiểu Bình – Jimmy Carter cuối
tháng 1-1972 để xúc tiến chiến tranh ngày 17-02-1979 đánh Việt Nam.., quan hệ
Mỹ - Trung ở khu vực lúc này đang nồng ấm… Trên đất Thái Lan những thông tin
tôi có được cũng không có gì cho thấy đang rục rịch một cuộc chiến tranh Việt
Nam mới… Vân vân…
Nhất là ngày 27-02-1991 tôi
đã có một báo cáo riêng về cuộc chiến tranh này, dài 13 trang, cố gắng phân
tích mọi khía cạnh của sự vật, nêu lên một số nhận đinh những diễn biến mới có
thể xảy ra, đánh giá không có khả năng Mỹ sẽ quay lại đánh Việt Nam, và kiến
nghị đối sách.
Nghĩa là tôi có đủ các lý
do – cả trên phương diện kỹ thuật – để đánh giá tin báo cáo về nhà của luồng
tin trên là không đúng. Nhưng tính chất sự việc quá nghiêm trọng, đặt quốc gia
trước chiến tranh hay hòa bình.
Tôi chủ động đi gặp người
gửi tin, trao đổi.
Mọi đề nghị hợp tác của
tôi, từ cao nhất đến thấp nhất, cùng nhau thống nhất đánh giá tình hình, và
cùng nhau báo cáo chung hay báo cáo riêng rẽ về nước… những cách khác,… .., mọi
đề nghị tôi đưa ra nhất nhất bị từ chối!
Tôi nói với người đối thoại
của mình:
- Rất tiếc chúng ta không
đạt được sự hợp tác nào cả. Vậy tôi sẽ có một báo cáo riêng về nước, bác bỏ
từng điểm báo cáo của anh. Tôi có thể đúng, có thể sai, song trách nhiệm của
tôi trước quốc gia, tôi phải làm như vậy. Tôi nói trước để anh biết.
Báo cáo về nước đã gửi,
chiến tranh vùng Vịnh I đi vào thời kỳ quyết liệt. Một tuần, hai tuần. lâu hơn
nữa.., tôi không có hồi âm. Ngày đêm cứ như cá nằm trên thớt: Nhỡ nhận định về
Mỹ của tôi sai thì sao?..
Vài tháng sau chiến tranh
vùng Vịnh I kết thúc hẳn.
Một thời gian nữa.., cũng
không thấy cuộc chiến tranh Việt Nam mới… Sau đó tôi có việc về nước họp, một
cán bộ lãnh đạo trong tứ trụ trực tiếp nói với tôi một câu cực ngắn: “Tôi đã
đọc báo cáo của anh!”
Tôi chỉ đáp lại một tiếng
“Vâng!” cộc lốc, vì bực.
…
Thời gian chiến tranh vùng
Vịnh cũng là thời kỳ đàm phán giải quyết vấn đề Campuchia đi vào giai đoạn
chót, Bangkok là một trong những nơi họp chính giữa các bên hữu quan. Là đại sứ
tại chỗ, nhiều khi tôi như ngồi trên lửa, vì nội dung đàm phán phức tạp đã
đành, song còn vì phía Kmer đỏ (chắc chắn nhiều trường hợp Khmer đỏ chỉ là cái
micro của người đứng đằng sau!) thay đổi lập trường xoành xoạch. Có lúc đoàn
của ta hay anh Thạch đặt ra cho những người tại chỗ chúng tôi nhiều câu hỏi khó
để tìm hiểu. Rất may trong đại sứ quán chúng tôi là một nhóm làm việc có hiệu
quả và tinh thần đồng đội cao. Về sự hợp tác hiệu quả này, hôm nay tôi muốn nói
lời cảm ơn đặc biệt với anh Nguyễn Quang Dy, người mà hôm nay vẫn đều đều cung
cấp cho chúng ta những bài báo rất chất lượng và đáng quý. Hồi ấy anh Dy chịu
trách nhiệm mảng các báo chí sở tại và báo chí nước ngoài có mặt ở Thái Lan và
các tùy viên báo chí của các nước, tôi đảm nhiệm mạng các đại sứ, những người
khác phụ trách những mảng khác. Báo cáo chúng tôi gửi về nước hoặc những nhận
định, những đánh giá về mọi lĩnh vực khác chủ yếu được xây dựng trên những kết
quả làm việc này – về chiến tranh vùng Vịnh cũng vậy.
Thực sự là những ngày đêm
của dằn vặt, lo âu và chờ đợi.
Vợ tôi rất lo, chỉ thấy tôi
đăm chiêu và đôi lúc khó tính nữa. Cứ nghĩ tôi ốm. Tôi giải thích không phải,
chỉ hứa khi nào có chuyện gì mới sẽ kể… Nhưng trong lòng cố dẹp lại những câu hỏi
làm ngã lòng. Nguyên do chính có lẽ là tâm tư tôi nghĩ khác quá, mà cuộc sống
tôi đối mặt chẳng giống tôi suy nghĩ chút nào…
Không phải chờ đến lúc có
câu chuyện chiến tranh vùng Vịnh này, từ lâu rồi những điều chướng tai gai mắt
đến với tôi ngày càng nhiều, cái sai cái ác cứ tiếp tục lấn át mãi cái đúng cái
thiện. Tôi nghĩ về thân phận đất nước, thân phận mình… Câu chuyện vùng Vịnh này
chẳng khác gì tôi được bồi thêm một quả đấm mới, trước đó đã ăn những quả đấm
như vậy rồi: Cái sai cái đúng cứ lẫn lộn với nhau như thế và cùng nhau chìm dần
trong im lặng, để rồi cuối cùng chỉ còn lại mỗi cái sai ngự trị, hoành hành
tiếp!
Cái chế độ chúng ta đang
sống là như vậy! Quyền lực đang hành sử với chúng ta như vậy!.. Đấy là tâm
trạng thực của tôi nói với tôi trong những đêm mất ngủ. Vợ tôi cũng phải trằn
trọc theo, đã lo lại càng lo, mà không hiểu vì sao…
Tôi chỉ có những lời an ủi
một chiều, để ru vợ ngủ thôi, chứ chẳng nói lên được điều gì!
Ngủ đi em
Tặng Hiền và những đêm mất
ngủ
Ngủ đi em, ngủ đi, đừng
khóc nữa
Dù đường đời bao nỗi truân
chuyên trăn trở
Hãy nghe anh, đừng nặng lời
với những đắng cay vất vả…
Đừng trách trời, trách đất,
hờn giận anh
Ngủ đi, em yêu dấu cố ngủ
đi
Để rồi lại sống, lại yêu,
lại cho đời tất cả
Bàn tay ta, trí tuệ ta, và
trái tim khao khát của ta
Để cùng nhau say đắm một
lời ca…
Ngủ đi em, ngủ đi mà lấy
sức
Ngày mai chúng ta lại đứng
dậy cùng nhau
Lại mơ ước, cầu nguyện và
yêu nhau như thuở trước
Quên hết mọi phiền muộn, bỏ
qua mọi tan vỡ…
Ngủ đi em yêu, ngủ đi em
Để chúng ta thôi nức nở trong
giấc lành
Để nhịp thở hiền hòa dịu
lại tâm hồn anh
Và cho anh tất cả những gì
đã mất…
Em yêu, ngủ đi, hãy cố ngủ
đi
Một phút thôi, một chợp
mắt
Đừng dằn vặt anh, đừng tự
làm khổ mình
Những câu hỏi vắt ngang
trời đất…
Em yêu ngủ đi, nếu muốn
lòng anh bớt nặng
Gánh đoạn trường giằng xé
tim anh
Thêm một nỗi em đau, thêm
trăm lần anh tê tái…
Ngủ đi em, ngày mai khi
thức dậy
Em sẽ hiểu anh hơn
Sẽ lại đón anh trong vòng
tay da diết
Sẽ lại nói với anh bao điều
tha thiết
“Em vẫn là của anh, mãi mãi
là của anh!..”
Ngủ đi em, cho anh nhìn em
trong giấc ngủ yên lành…
Em ngủ đi, và anh sẽ nói
với em tất cả
Không phải để em nghe, mà
chỉ để vợi lòng anh
Nỗi đau không cách gì chia
sẻ
Sống chịu một mình, và chết
sẽ mang đi một mình
Cuộc đời của anh, tâm hồn
anh, ước vọng của anh…
Xin đừng trách anh thiếu
lòng chung thủy
Vì yêu em anh giữ cho mình
tất cả
Ngủ đi em yêu, ngủ đi, để
cho anh kể tiếp
Một số phận, một vần thơ
dang dở kiếp người
Một lời nguyền chăng – hay
một định mệnh
Sao không dứt ra được như
câu chuyện cổ tích ngày xưa
Mẹ vẫn kể thì thầm bên bếp
lửa…
Chẳng lẽ trách mẹ cha đã
cho ta lòng nhân bản
Chẳng lẽ trách chính ta
chót yêu nghĩa đời cao đẹp…
Ngủ đi em ơi, nói sao em
hiểu được
Nói lòng anh và khát vọng
của đời anh
Mọi đớn đau, hoài nghi và
thất vọng
Nguyễn Du đã kể chuyện
Kiều
Nhưng ai kể được nỗi lòng
anh tan nát…
Ngủ đi em, anh xin em ngủ
đi
Vì em là anh, là hiện thân
của hy vọng anh còn giữ được
Ngủ đi em yêu, hãy ngủ
đi
Và giữ gìn anh trong muôn
vàn bão tố…
Anh cầu bốn phương cho giấc
ngủ của em
Anh tạ trời tạ đất cho giấc
ngủ bình yên
Và em sẽ tìm lại cho anh
những nụ cười đánh mất
Ngủ đi em yêu, mình anh
thức đã đủ rồi
Khóc làm chi, nước mắt anh
đã đầy rồi
Khắp biển khổ vực đau đời
giăng mở
Cả niềm đau anh không san
sẻ
Sẽ là của em và chỉ riêng
em
Khi em hiểu được anh và trở
thành chính anh
Ngủ đi em yêu, vì đối với
anh em là tất cả…
Em yêu ngủ đi
Anh sẽ kể nhiều, kể
nữa
Kể sự trắng đen đảo lộn
giữa ban ngày
Kể chuyện người xưa tìm
trăng trong hồ nước
Kể chuyện người nay chỉ
thấy hằng nga trong sa mạc
Kể chuyện anh cháy bỏng
trong mộng mơ
Suốt cuộc đời chưa viết
trọn một vần thơ
Tóc đã pha sương còn u mê
vai “chàng ngốc”
Như truyện nước Nga xưa lưu
lại tự bao giờ
Bị lừa, và được lừa..,
chẳng sao mà hiểu nổi
Ma quỷ xâu xé anh như bầy
quạ đói
Anh chỉ còn mỗi trái tim
chúng chê bôi vứt lại
Vì vậy anh vẫn yêu mê dại
cuộc đời…
Em ơi, nói sao em hiểu
nhỉ
Anh không biết trời, không
tin thượng đế
Nhưng vẫn cầu xin cho em
ngủ nữa đi
Đừng làm đứt đoạn chuyện
anh đang kể…
Ngủ đi em yêu cho tâm hồn
anh dịu lại
Cho anh kể em nghe những
bước đường đời…
Còn tiếp . . .
[1] Sau
khi mãn nhiễm đại sứ về nước, trong báo cáo của tôi gửi Bô Chính trị ngày
09-051994, tôi chính thức đề nghị xây Camranh thành một khu cảng quốc tê, đi
liền với khu công nghiệp, vừa phục vụ quốc phòng, vừa phục vụ kinh tế, chú ý
thu hút đầu tư của Mỹ và các nước phương Tây – theo mô hình đã có một số nơi
trên thế giới (trang 15).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét