Nguyễn Xuân Diện: THĂM ĐỀN HAI BÀ TRƯNG
Thứ Bảy, 29 tháng 2, 2020Xuandien
Đền Hai Bà Trưng
Theo Từ điển Bách Khoa mở Wikipedia: Đền Hát Môn, còn gọi là
đền Quốc tế, đền Hai Bà Trưng, tọa lạc ở xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội. Di tích Đền Hát Môn (huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng
Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số
2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013).
Theo
một số tài liệu ghi lại, vùng Hát Môn là nơi Hai Bà Trưng tổ chức hội quân sĩ
sau khi hội tại thành Phong Châu. Đây cũng là nơi tuẫn tiết của Hai Bà Trưng
khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tương truyền, đền Hát Môn được khởi dựng sau khi
Hai Bà Trưng hoá sinh vào cõi bất diệt.
Đền
quay hướng Tây Nam gồm các công trình kiến trúc chính: quán Tiên, miếu Tạm ngự,
nghi môn, nhà phương đình, đàn Thề, tam quan, tiền tế, trung đường, hậu cung, tả
hữu mạc, gò Giấu ấn, nhà tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định, nhà khách, khu phụ…
Quán Tiên: là một kiến trúc nhỏ,
xây bằng gạch, cửa mở về hướng đền kiểu vòm cuốn, có mái đao cong, nền cao hơn
mặt đường 45 cm, tạo ba bậc lên nền quán. Theo cuốn thần tích của làng chép lại,
thì nơi đây vốn là quán hàng bán bánh trôi nước. Khi nghĩa quân của Hai Bà
Trưng hội tại đàn Thề, bà hàng bánh trôi đã dâng cả gánh bánh để Hai Bà ăn trước
khi ra trận dẹp giặc. Ngôi quán nhỏ này được dân làng dựng lên để tưởng nhớ
công ơn đối với bà hàng bánh trôi.
Miếu Tạm ngự: nằm phía trước bên
phải đền chính, có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế
ba gian, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Các
bộ vì kết cấu kiểu vì “giá chiêng, hạ kẻ bẩy hiên”. Toà hậu cung ba gian, xây nối
liền với tiền tế, hệ vì đỡ mái có kết cấu tương tự nhà tiền tế. Phía trước mở hệ
thống cửa kiểu bức bàn. Công trình kiến trúc này là nơi tạm ngự của Thánh Bà.
Khi mùa nước lũ hàng năm, khu đền chính bị ngập, dân làng rước tượng, ngai thờ
và toàn bộ đồ thờ tự của đền về đền Tạm ngự, hết mùa nước lũ lại rước Thánh
hoàn cung.
Nghi môn ngoại: có niên đại khởi dựng
vào thời Nguyễn, được làm theo kiểu tứ trụ xây gạch, đỉnh trụ đắp nổi hình tứ
phượng, lân. Phần lồng đèn đắp nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Thân
trụ có câu đối chữ Hán. Từ nghi môn theo triền đê xuống là khu đền chính, bên
phải có hồ nước, giữa hồ có nhà thủy đình (phương đình) mới xây dựng gần đây.
Bên trái đường trên mặt đê là nhà tưởng niệm nữ tướng - nữ anh hùng Nguyễn Thị
Định.
Đàn Thề: được xây dựng mới ở phía trước cổng tam quan, cột đá thề được
tạo kiểu trụ hình tháp, bốn mặt có khắc chữ Hán, đặt trên nền cao hơn mặt sân
65 cm, trổ năm bậc lên, mặt hướng vào đền khắc nội dung lời thề của Hai Bà
Trưng. Bao quanh đàn thề là tường bao lửng, phía ngoài đặt các tượng voi và ngựa
bằng đá.
Nghi môn: gồm ba gian kiểu chồng
diêm, hai tầng mái. Ba cửa vào đền làm kiểu ván bưng. Các bộ vì đỡ mái được kết
cấu theo dạng “giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên”, mái lợp ngói mũi, nền lát gạch Bát.
Nhà bia: hai nhà bia được xây ở vị trí phía ngoài dãy nhà tả/ hữu mạc,
trên nền cao hơn mặt sân 30 cm, kiểu phương đình, mái lợp ngói ta, bốn đầu đao
tạo cong vút.
Tả/ hữu mạc: mỗi dãy năm gian
chạy dọc theo sân đền, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, các bộ vì đỡ
mái kết cấu dạng “giá chiêng, hạ kẻ”, được đặt lên tường bổ trụ trốn một hàng cột.
Nhà đại bái: gồm năm gian, xây gạch
kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu “thượng giá chiêng, chồng
rường, cốn mê, bẩy hiên”, hoành mái phân “thượng tam - hạ tứ”, mái lợp ngói ri,
nền lát gạch Bát. Trang trí trên kiến trúc tập trung dày đặc ở đầu dư, cốn, xà
nách, bẩy, ván gió dưới dạng chạm nổi, chạm lộng …, với các đề tài rồng, tứ
linh. Đây là sản phẩm nghệ thuật từ thời Lê Trung hưng đến thời Nguyễn. Gian giữa
treo hoành phi, các cột cái đều treo câu đối ca ngợi công đức Hai Bà.
Tiền tế: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, nền nhà cao
hơn mặt sân 30 cm, xung quanh bó gạch vỉa, các bộ vì kết cấu“thượng rường giá
chiêng, hạ bẩy hiên”.
Hậu cung: gồm ba gian, xây
trên nền cao hơn mặt sân, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Phần mái của
tòa này được nối với tòa trung đường qua phần mái của nhà cầu. Bộ khung gỗ đỡ
mái gồm bốn bộ vì kèo dạng “chồng rường”. Trang trí trên kiến trúc này chủ yếu
là phượng. Gian giữa cung cấm được tạo một khám gỗ bưng kín bằng các ván gỗ, là
nơi thờ Hai Bà.
Nhà khách: gồm năm gian, kiểu
tường hồi bít đốc. Các bộ vì đỡ mái tạo kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ, bẩy
hiên” cột trốn.
Gò Giấu Ấn: ở phía sau hậu cung
đền. Tương truyền, đây là dấu tích nơi Hai Bà Trưng cất giấu ấn tín trước lúc
rút quân hoá thân về cõi vĩnh hằng ở cửa sông Hát. Hiện nay, gò Giấu Ấn được bó
vỉa, xây tường gạch bao quanh.
Đền
Hát Môn còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về văn hoá, lịch sử, gồm:
293 di vật, cổ vật với nhiều chủng loại và phong phú chất liệu, như: gỗ, đá, đồng,
sứ, giấy, kim loại... có niên đại trải dài từ thời Lê, Tây Sơn, Nguyễn đến nay.
(Wikipedia ngày 29.2.2020)
Điện thờ
Tượng thờ Hai Bà. Bà Trưng Trắc bên phải.
Song thần kiếm của Hai Bà. Hai Bà sẵn sàng tuốt vỏ để trừ giặc
Cụ Thủ từ tuyên sớ
Nguyễn Xuân Diện trước linh vị Hai Bà Trưng
Đồ thờ
Hổ phù ở nhang án thờ
diệp long
Hoành phi: Hưởng thành tích hỗ
Hoành phi: Hùng Lạc chính thống
Hoành phi: Trì tiết hành nghĩa
Bức hoành do các vị: Phan Duy Tiếp, Trần Lê Nhân...cúng tiến
Bia đá
Bia: Miếu hướng bi ký dựng năm Tự Đức 35 (1882)
Kiệu đền Hai Bà
Kiệu long đình, sơn đen
Án dâng lễ vật, sơn đen
Án sơn đen
Linh thú ở đền Hai Bà
Đền Hai Bà nằm giữa một không gian cổ kính
Bia ghi dấu: GÒ GIẤU ẤN
Ngày 6.3 năm 43, (Quý Mão) trước lúc Hai Bà hóa thân xuống dòng sông Hát
Hai Bà sai tướng tùy tòng chôn cất ấn tín ở khu vực này
Toàn cảnh Gò Giấu Ấn
Gò Giấu Ấn
Cây cối rườm rà, phong cảnh linh thiêng
Khu đàn thề mới tôn tạo
BẮC THÀNH ĐỊA DƯ CHÍ LỤC
Đền thờ Trinh Linh Nhị
Trưng vương
Ở địa phận xã Hát Môn
huyện Phúc Lộc. Vương người huyện Mê Linh thuộc Châu Phong. Nguyên họ Lạc, con
gái của Lạc tướng Giao Châu, chị húy Trắc, em húy Nhị. Người chị lấy chồng
người huyện Chu Diên. Bấy giờ Thử sử Tô Định tham tàn bạo ngược, hai chị em dấy
binh đánh lại, chiếm Giao Châu, bình định 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua
nước Việt, xưng họ là Trưng. Hán Quang Vũ sai bọn Mã Viện, Lưu Phong đánh lại.
Quân kéo đến Lãng Bạc, hai bà chống đỡ không nổi, lui về giữ Cấm Khê, sau không
biết dấu tích. Về sau người châu ấy lập đền thờ cúng. Triều Lý Anh Tông cầu mưa
được ứng nghiệm. Vua mộng thấy hai bà nói rằng: “Bọn thiếp là hai chị em họ
Trưng, vâng mệnh thượng đế làm mưa”. Vua tỉnh giấc, ban sắc tu tạo từ vũ, phong
làm Trinh Linh nhị phu nhân. Trải các triều nhiều lần được phong tặng.
(Trích Sử ký [tức Đại Việt sử ký toàn thư], Lĩnh
Nam chích quái).
ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ
Đền Hai Bà Trưng
Ở địa phận xã Hát Môn
huyện Phúc Thọ.
Vương là người huyện Mê
Linh thuộc châu Phong (nay là xã Hạ Lôi huyện Yên Lãng), nguyên trước là họ
Lạc, bà chị huý là Trắc, vì Thái thú Tô Định giết mất chồng nên cùng với bà em
huý là Nhị dấy quân, đánh phá lị sở Giao Châu, bình định được 65 thành ở Lĩnh
Nam, tự lập làm vương và đổi họ là Trưng. Sau khi bị Mã Viện đánh bại [hai bà
tự vẫn]. Sau khi mất nhân dân nhớ mến lập đền thờ ở cửa sông Hát Môn. Hai xã
Yên Cư và Hạ Lôi huyện Yên Lãng cũng có đền thờ, thường được các triều phong
tặng.
Sử chép: Trưng Vương
kháng cự Mã Viện, thế không địch nổi phải rút quân giữ Cấm Khê (có sách chép là
Kim Khê). Thuỷ kinh chú chép: Cấm Khê là đất Cấm (Kim) Khê ở phía tây nam huyện
Mê Linh. Nam Việt chí của Thẩm Hoài Viễn nói: Trưng Trắc chạy
vào trong khe Kim Khê, 2 năm mới bắt được.
Lại xét: trong
đền thờ Bà Trưng, phàm kỷ án và các đồ tự khí hết thảy sơn then, tuyệt nhiên
không dùng màu đỏ, dân địa phương không dám dùng sắc đỏ, những người đến lẽ
hoặc xem, ai mặc sắc đỏ đều phải cởi ra. Tương truyền thần mất về binh khí, nên
kiêng màu đỏ giống máu.
Trích: Thăng Long
- Hà Nội: Tuyển tập tư liệu văn hiến. Địa chí. Nxb. Hà Nội, 2010
và Huyện Phúc Thọ
- Làng xã và những di sản văn hóa. Hà Nội, 2010.
Bài đăng lần đầu 9.9.2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét