Kinh tế trong cơn đại dịch Covid 19
Tạ Dzu
Nhân mùa đại dịch Convid
19 - kinh tế thế giới nghiêng ngả, chuỗi dây cung ứng quốc tế bị ngưng trệ hoàn
toàn, thị trường chứng khoán thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ trồi sụt bất thường,
có lúc lên hay xuống cả ngàn điểm (khi chạm vào giới hạn lên xuống 7% nên phải ‘đóng
cầu giao’, hoặc trước lúc thị trường mở cửa hay ngay trong ngày, không cho trao
đổi chứng khoán trong vòng 15 phút hay hơn, tuỳ mức độ lên xuống và vào lúc nào,
để giới hạn thiệt hại)[1],
cuối ngày lại xuống hai, ba ngàn điểm – chúng ta nên có một cuộc duyệt xét lại
tình hình kinh tế thế giới để hiểu phần nào, tại sao chỉ vì dịch corona virus mà
thị trường chứng khoán toàn cầu lại chao đảo kinh hoàng như vậy?
Nhiều người gọi tình
trạng coronavirus gây xáo trộn kinh tế là ‘thiên nga đen’ (black swan)[2]. Thiên nga đen là một sự kiện vượt quá những
gì thường được dự kiến về một tình huống nào đó và có những hậu quả nghiêm trọng.
Hy vọng qua cuộc duyệt xét tạm gọi là tổng quan ngắn gọn này, chúng ta, đặc biệt
là các kinh tế gia người Việt quan tâm đến tình hình đất nước sẽ học được những
kinh nghiệm quý báu của thế giới, góp phần vào việc xây dựng một hệ thống kinh
tế phù hợp với đất nước và con người Việt Nam mai sau.
Kể từ thập niên
1980 trở về trước, Hoa Kỳ đã để bàn tay vô hình (invisible hand) thúc đẩy sự cạnh
tranh với quy luật đào thải của kinh tế thị trường mà nhà nước không can thiệp
gì nhiều[3].
Sang thập niên
1990, qua Đồng thuận Washington (Washington Consensus), Mỹ đã dẫn đầu thế giới
trong việc toàn cầu hoá bằng cách thúc đẩy việc hạ thấp hay huỷ bỏ hàng rào
quan thuế, hối thúc các ngân hàng thế giới mở rộng cánh cửa tài chánh hỗ trợ
cho đầu tư và thương mại quốc tế. Những cố gắng này đã khiến những nguồn tiền
khổng lồ luân lưu xuyên quốc gia theo làn sóng tự do hoá tài chánh (financial
liberalization) mà không bị cơ quan quốc tế nào thanh tra, tuy dẫn đến phát triển
nhưng cũng dễ làm bùng vỡ những bong bóng kinh tế thế giới trong nhiều năm qua:
từ Mexico (1994), Đông Á (1997), Nga
(1998), Nam Mỹ (2000), đến Mỹ (2007-2009), châu Âu (2010-2012).
Cuộc đại khủng hoảng
tài chánh 2008-2009 (Great Financial Crisis) đã làm lung lay hình ảnh tốt đẹp của
toàn cầu hoá. Nhiều kinh tế gia tài ba cũng không thể dự tính được rằng kinh tế
thị trường trao đổi tự do cũng không thể tự điều tiết giá cả cho hợp lý và đào
thải những thành phần hám lợi gây thiệt hại to lớn ra khỏi thị trường. Mặc dù
được đào tạo chuyên nghiệp, nhiều chuyên viên tài chánh xuất thân từ những ngôi
trường danh tiếng như MIT, Havard… của Mỹ, cùng hàng loạt những ngân hàng quốc
tế có đến cả trăm năm kinh nghiệm, vì tham lam, đều… nhắm mắt đưa chân, lao vào
những loại đầu tư đầy rủi ro (risky assets) như chứng khoán, trái khoán trả lãi
cao (high-yield bonds) và th ị trường bong bóng địa
ốc như những con thiêu thân.
Thị trường địa ốc Mỹ
tan vỡ cuối 2007, khởi đi từ bọt bong bóng bể của Lehman Brothers, lan rộng ra
toàn cầu vì tình trạng dây chuyền trong mậu dịch quốc tế. Chính phủ Mỹ đã vội
phải nhảy vào can thiệp, chứ nếu để mặc cho thị trường tự điều tiết, tự đào thải
sẽ khiến hàng loạt ngân hàng sụp đổ, dẫn đến hàng vạn công ty đóng cửa và cả chục
triệu người mất việc.
Ta thấy rằng toàn cầu
hoá tuy mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng trở thành trở ngại nếu không được
bàn định kỹ lưỡng giữa các quốc gia, ít nhất là từ những cường quốc kinh tế nhằm thiết lập một tiêu
chuẩn trách nhiệm xã hội toàn cầu (social responsibility). Qua cuộc khủng hoảng
địa ốc đó, con người cần thiết lập được một ‘cộng đồng nhân loại’ – human
community - sinh sống hoà hài bên nhau, thay vì tiếp tục cạnh tranh khốc liệt,
mạnh ai nấy sống, tạo ra nhiều bong bóng các loại rồi cùng bể với nhau.
Các ngân hàng trung
ương thế giới từ 2008, hoặc tự quyết định, hoặc cùng với hệ thống chính trị đã
đồng loạt đưa ra những gói kích cầu khổng lồ (Mỹ là TARF, QE1, 2, 3…) nhằm cứu
vãn kinh tế. Cứu vãn kinh tế thì đương nhiên phải thực hiện rồi, nhưng cùng lúc,
các ngân hàng trung ương cũng phải hiểu rằng họ đã tạo ra hiện tượng ‘ngập lụt
tiền tệ’ thế giới. Ngân hàng trung ương Mỹ (Fed) giữ lãi suất thấp quá lâu để
chính phủ dễ có khả năng trả nợ (hiện nợ quốc gia đã lên đến 23 ngàn tỉ), nhưng
lại là nguyên nhân cho các công ty mượn nợ rẻ, nhưng thay vì dùng tiền đó phát triển
công ty, nhiều hãng đi mua lại cổ phiếu của chính mình vào để giá cổ phiếu tăng
nhanh ngoài thị trường (stock buybacks). Cổ phiếu tăng thì các nhà đầu tư lẫn
giới lãnh đạo công ty đều hưởng lợi lớn. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng thực
chất của kinh tế hồi phục (recovery) từ 2008 đa phần là do các hãng xưởng mượn
nợ xài, chứ GDP cả chục năm qua không không bao nhiêu.
Tình trạng rất nhiều
hãng xưởng lẫn chính phủ nợ nần ngập đầu và ngân hàng trung ương giữ lãi suất
thấp khá lâu, có thể là những nguyên nhân chính yếu giải thích cho tình trạng
kinh tế hôm nay, mà các chú vi rút Corona ‘ngang tàng’ là giọt nước cuối cùng
làm tràn ly nền kinh tế mà ai cũng lo thủ lợi cho mình phần nhiều hơn người khác.
Kinh tế suy trầm, hãng xưởng không trả được nợ, đành phải nhờ chính phủ cứu vớt
(bailout)[4].
Với lãi suất xuống
đến 0%, các ngân hàng trung ương quốc tế không còn cách nào khác hơn là tiếp tục
in tiền cứu nguy kinh tế, một giải pháp đã không tạo hiệu quả tích cực cho kinh
tế thế giới, lại được tiếp tục thực hiện.
Ngoài ra, với tư
duy chính trị thế giới ngày nay, gần như tất cả các chính trị gia đều có chung
một điểm là đều muốn được tái đắc cử. Họ dễ có khuynh hướng làm nhiều điều ngoài
khuôn khổ nguyên tắc bình thường để đạt được mục tiêu. Khái niệm đắc cử để phục
vụ công chúng (public service) dường như đã trở thành xa xỉ. Đó không phải là
khuôn mẫu chính trị mà ta muốn xây dựng cho quê hương mai sau.
Tình trạng bể bong
bóng địa ốc 2008 khiến nhiều nước đang phát triển bị ảnh hưởng nặng nề, nổi lên
tâm lý chống phương Tây, nhất là tại Nam Mỹ. Các quốc gia tầm trung (Brazil, Russia,
India, China - BRIC) cho rằng phải tiến lên lãnh đạo kinh tế thế giới thay thế
cho sự lụn bại của phương Tây. Bắc Kinh tung ra những gói kích cầu khổng lồ
(tuy sau này bị bể tín dụng) nhưng cũng đã giúp Tàu vươn lên, soán ngôi đệ nhị
cường quốc kinh tế thế giới thay Nhật, và đang đe dọa soán đoạt luôn ngôi vị bá
chủ của Mỹ.
Trong khi đó tại
Hoa Kỳ, khủng hoảng 2008 làm nổi bật những nỗi bất mãn lâu năm của giới công
nhân trung lưu: 30 năm qua lương không tăng bao nhiêu mà còn nơm nớp lo âu mất
việc. Toàn cầu hoá gây khốn đốn cho tầng lớp trung lưu phương Tây nhưng lại ưu
đãi giới thượng lưu ít ỏi, lớp người đã vật đổ kinh tế Mỹ 2008 nhưng được nhà
nước rộng tay cứu vớt, không ai đi tù; dân thì mất nhà, mất American dream qua nhiều năm khổ công
tích góp.
Bàn tay vô hình năm
nào đã trở thành què quặt, không còn đủ dài để điều chỉnh thị trường lao động,
giá cả hợp lý và làm cán cân mậu dịch thế giới mất cân đối.
Nhiều người đồng ý
kinh tế không thể để cho bàn tay vô hình quyết định nữa, phải có nhà nước can
thiệp vào. Nhưng can thiệp tới mức độ nào, và là nhà nước nào, có thực sự là
nhà nước của dân hay của các đảng phái?
Khủng hoảng 2008
khiến dân mất nhà, trắng tay, nhưng dù có phẫn uất đến mấy chăng nữa cũng chỉ đến
độ tràn vào toà nhà quốc hội ăn vạ và trương bảng “We are 99%” biểu tình. Còn
quyền quyết định kế hoạch, chính sách ra sao thì vẫn là quyền của 1% giới thượng
lưu (elites) mặc cả, giằng qua kéo lại với nhau. Thể chế tuy mang tiếng là dân
chủ, nhưng nhân dân không có quyền quyết định lấy vận mệnh chính trị của mình,
vẫn là một quyền riêng thuộc về các chính đảng. Nếu họ quyết sai thì dân cũng
ráng mà chịu.
Trước tình hình
kinh tế nghiêng ngả đó, lương công nhân không tăng mà cứ thom thóp lo nếu mất
việc, không khéo sẽ bị nhà băng kéo mất nhà, nên trong cuộc bầu cử năm 2016 ở Mỹ,
ông Trump tuy ăn nói bạt mạng, nhưng hứa hẹn sẽ đem công ăn việc làm về cho người
dân, cộng thêm lời hứa bùi tai quyết tâm ‘drain
the swamp’ (tát cạn vũng lầy thượng lưu độc hại) nên đã thắng bà Clinton tiến
vào Nhà Trắng.
Vậy Việt tộc có nên
suy nghĩ đến một nền dân chủ mang tính toàn dân (như thời Lý-Trần và Lê Thánh
Tông) - không chỉ là sân chơi của các đảng - để dân tự quyết lấy hay chăng, và
một nền chính trị thực sự do nhân dân đảm nhiệm, nhà nước chỉ giữ vai trò điều
hợp, tạo điều kiện cho dân tổ chức đời sống xã hội của họ, chứ không phải chính
trị dân tuý, mị dân để kiếm phiếu và tái đắc cử?
Bộ mặt kinh tế thế
giới vài thập niên trước mắt chắc chắn sẽ thay đổi sau vụ coronavirus ngang
tàng làm ngưng trệ nguồn cung ứng toàn cầu và thương chiến Mỹ-Trung chưa chấm dứt.
Thế giới sẽ thay đổi thế nào, for better
or worse (sáng sủa hay u tối hơn)? Nhân loại có học được bài học đắt giá
nào không, sau những vụ ‘dot com bubble 2000’, ‘mortgage bubble 2008’, ‘black
swan Covid-19 2019’?
Chờ hồi sau sẽ rõ.
Tạ Dzu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét