Khai Bút Đầu Năm:
Sự Băng Hoại Và Suy Đồi Của Xã Hội Việt Nam Hôm Nay
Hay Là Hệ Lụy Từ Sự Đa Nhân Cách Tầng Lớp Trí Thức
Quách Hạo Nhiên
26.02,2021
Vietstudies
Mở đầu
Trí thức là tầng lớp “có
chữ”, có hiểu biết sâu, rộng về một hay vài lĩnh vực nào đó. Học giả Cao Huy
Thuần gọi thành phần trí thức là “lương tâm của thời đại”. Bởi vai trò của trí
thức là dẫn dắt, khai mở cho các tầng lớp khác bằng nhận thức, tư tưởng, phát
minh, phát kiến của mình nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng văn minh,
tiến bộ, lành mạnh…
“Đa nhân cách” trước hết
là vấn đề thuộc về tâm lý phổ biến của con người nhất là trong xã hội hiện đại
khi phải chống chọi và ứng phó nhằm thích nghi với những tình huống khác nhau
của cuộc sống. Chính do phải luôn tìm cách đối phó và thích nghi đã làm cho
nhân cách của con người bị “rối loạn” từ đó chuyển thành bệnh lý. Người bị rối
loạn nặng là những bệnh nhân tâm thần buộc phải điều trị và cách ly.
Quan sát những gì đang
diễn ra trong xã hội Việt Nam hôm nay, đặc biệt là khi mạng xã hội bùng nổ có
thể thấy những thang bậc giá trị văn hóa đang ngày một bị đảo lộn và băng hoại.
Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng dường như có một nguyên nội tại, cốt tử nhất từ
phía tầng lớp trí thức trong xã hội lại hiếm khi được để cập và mổ xẻ nghiêm
túc. Bởi như đã nói ở trên, với vai trò dẫn dắt và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội
nên khi các thang bậc giá trị của xã hội bị đảo lộn thì chắc chắn trí thức
không thể vô can, nếu không muốn nói là tội đồ cần phải lên án trước tiên.
Ở phương diện nghề
nghiệp, thành phần trí thức trong xã hội thường tập trung ở các lĩnh vực liên
quan đến các “nhà” như: nhà giáo, nhà văn, nhà báo, nhà văn hóa, nhà chính trị…
Sẽ có người tự ái và không hài lòng nhưng phải nói rằng thành phần các “nhà”
này ở xã hội Việt Nam hôm nay đang rơi vào vòng xoáy của sự sa đọa với những
biểu hiện và đặc điểm như: xu thời, trí trá, hèn kém, nước đôi, ba phải… Nói
khác đi, có thể gọi đây là cách/lối sống muôn mặt, giả tạo, lá mặt lá trái, gió
bề nào che bề đó của một bộ phận rất đông trong tầng lớp trí thức nước nhà hôm
nay.
Dấu hiệu, thời điểm,
giai đoạn khởi phát
Dẫu vậy, cũng phải khẳng
định rằng cái mốc từ sau 1945 đến nay những biểu hiện trên mới ngày một khởi
phát, hiển hiện ngày một rõ ràng và trầm trọng hơn.
Trong “Bút pháp
của ham muốn”, từ góc nhìn phân tâm học, nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã có
những phát hiện độc đáo khi nghiên cứu trường hợp thơ Chế Lan Viên. Theo ông,
thơ Chế Lan Viên là những biểu hiện của một tâm hồn nghệ sĩ - một trí thức đa
nhân cách trước những biến thiên của thời cuộc. Nếu như trước 1945, Chế Lan
Viên tự nhân mình là cái “tháp bayon 4 mặt” buộc phải “giấu đi 3” trong tư cách
người nghệ sĩ thực thụ thì sau 1945, sự “rối loạn” nhân cách (đa nhân cách) của
Chế Lan Viên gần như là một phản ứng mang tính bản năng nhằm thích nghi với tư
tưởng, nhận thức, chủ trương và đường lối cách mạng do ĐCS lãnh đạo trong bối
cảnh chiến tranh loạn lạc. Và không chỉ riêng Chế Lan Viên đa phần những tài
năng trước 1945 đều như vậy. Nghĩa là tất cả đều phải “nói lại” cho “hợp thời”
để trước hết được tồn tại và thụ hưởng bổng lộc.
Đó cũng là lý do sau
1945 các nghệ sĩ trên sản xuất thơ văn nghệ thuật rất nhiều nhưng oái oăm thay
độc giả hôm nay nhìn chung chỉ nhớ đến những gì họ viết ra trong khoảng từ 1930
đến 1945. Riêng Chế Lan Viên, trong cùng thời điểm nhưng ban ngày thì làm thơ
ca ngợi Đảng, ca ngợi cách mạng nhưng đêm đến thì làm thơ cho chính mình trong
nỗi ăn năn, sám hối, kiểu: “Ai? Tôi”! - Mậu Thân 2000
người xuống đường…”.
Đây có thể xem là những
chỉ dấu đầu tiên cho thấy sự trượt dài của tầng lớp trí thức nước nhà thời hiện
đại. Đỉnh điểm cho sự trượt dài này là cả một thế hệ tuy cùng chiến tuyến nhưng
đã trở mặt chĩa ngòi bút quyết chiến nhau trong vụ án mang tên “Nhân văn giai
phẩm”. Trước người “anh cả” Tố Hữu, những “cái tôi” lừng lẫy, cao chót vót tựa
đỉnh Hy Mã Lạp Sơn như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Huy
Cận… đã phải cúi đầu thần phục nhằm chứng minh sự trung thành của bản thân để
được trọng dụng, vinh danh.
Từ sau năm 1975, tuy đất
nước được thống nhất, giang sơn thu về một mối nhưng nhìn chung cả dân tộc vẫn
vẫy vùng trong vũng lầy của sự nghèo đói cả về vật chất lẫn tinh thần, đặc biệt
giai đoạn từ 1975 đến 1986 gần như là kiệt quệ.
Ở giác độ văn hóa, nhìn
sâu vào bên trong có thể nói, một trong những nguyên nhân lớn nhất đưa đến sự
kiệt quệ của đất nước giai đoạn này là do sự khủng hoảng của tầng lớp trí thức
thuộc 2 phe khi nước nhà vừa thống nhất. Hay nói khác đi, việc “hòa hợp”, “hòa
giải” dân tộc đã không được “bên thắng cuộc” thực thi như đã hứa hẹn (vấn đề
này thậm chí vẫn kéo dài đến tận hôm nay).
Những người trí thức
thuộc chế độ cũ miền Nam phần vì “sốc văn hóa” (khi tiếp xúc với các “trí thức”
miền Bắc XHCN vào tiếp quản và lãnh đạo toàn diện) phần vì tự trọng nên đã tự
kết liễu hoặc buộc phải bỏ xứ ra đi. Tô Thùy Yên sau hơn 10 năm học tập “cải
tạo” đã ngậm ngùi nuốt nước mắt vào trong, kiểm nghiệm lại đời mình sao quá xót
xa trong cơn “thương hải tang điền”: “Ta về như bóng ma hờn tủi/ Lục
lại thời gian kiếm chính mình/ Ta nhặt mà thương từng phế liệu/ Như từng hài
cốt sắp vô danh”.
Từ 1986 đến 2000, đây là
giai đoạn mở cửa và từng bước hội nhập (sau khi đã bừng tỉnh trước những đòi
hỏi bức thiết về sự tồn vong của dân tộc do những sai lầm trong điều hành đất
nước nhất là về kinh tế và ngoại giao…), đất nước về cơ bản có khởi sắc hơn về
đời sống vật chất nhưng về tinh thần thì những dấu hiệu của sự suy đồi ngày một
rõ nét hơn.
“Bần cùng sinh đạo tặc,
phú quý sinh lễ nghĩa”. Các du học sinh (nghe nói rất ít người học hành nghiêm
túc mà chủ yếu là buôn lậu, chạy mánh) từ khối CNXH anh em Đông Âu nhất là Liên
Xô sau khi trở về đã rất tinh mắt nhận ra thời cơ làm giàu trong bối cảnh nhập
nhèm, tranh tối tranh sáng của đất nước vừa bước qua thời cơm độn khoai sắn. Kẻ
lanh mắt chiếm lĩnh trận địa văn hóa, giáo dục, nghệ thuật bằng vỏ bọc Tiến sĩ
“sau một đêm” ngủ dậy; kẻ nhanh nhảu nhìn ra những kẽ hở của hệ thống pháp luật
liên quan đến vấn đề hàng hóa nhập cảnh ở các hải cảng, cửa khẩu và nguồn tài
nguyên khoáng sản, đất đai…
Đất nước từ đây được vận
hành và hoàn toàn bị chi phối tuyệt đối bởi tầng lớp trí thức – con người mới
XHCN (chủ yếu ở phía Bắc). Tuy vậy, cũng phải nói rằng trong hai thành phần
trên thì thành phần trí thức đã nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa văn hóa, giáo
dục, nghệ thuật là kinh khủng và kinh tởm nhất. Bởi văn hóa, giáo dục, nghệ
thuật là nền tảng, là tâm hồn của xã hội và dân tộc, đất nước. Chính thành phần
này chứ không phải ai khác đã thao túng và làm cho đạo đức văn hóa nước nhà
ngày một trở nên suy đồi vàng thau lẫn lộn dẫn đến hệ lụy như hôm nay. Bằng
chứng cụ thể và rõ ràng nhất là những lần họ “đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục” nước nhà và việc họ sản xuất, nhân bản ra hàng lô hàng lốc các Thạc
sĩ, Tiến sĩ…ở các “lò ấp” trên khắp cả nước nhưng vẫn cao giọng rao giảng đạo
đức.
Như một hệ lụy tất yếu,
từ 2000 đến nay, dưới sự bùng nổ của công nghệ truyền thông và mạng xã hội, bộ
mặt văn hóa – tâm hồn của dân tộc đã phơi bày một cách trần trụi. Nếu như trước
đây, có người sau một đêm thành Tiến sĩ thì bây giờ sau một giờ một kẻ ất ơ bán
hàng đa cấp cũng có thể thành nhà văn, nhà báo, nhà từ thiện, nhà nghệ sĩ...;
một anh nhà văn, nhà báo quèn cũng thành nhà văn hóa, nhà diễn thuyết, nhà dân
chủ… có khả năng dẫn dắt chi phối cả xã hội với những danh xưng đúng mốt:
facebooker, youtuber…
Thật lạ lùng và xót xa,
xã hội gì mà bạn bè, anh em, đồng nghiệp, đồng chỉ có khi chỉ vì một lời bình,
một cái bấm like…cũng sẵn sàng trở mặt, lao vào nhau, xem nhau như kẻ thù không
đội trời chung!
Nguyên nhân và một vài
biểu hiện cụ thể
Có ba nguyên nhân chính
gây nên sự rối loạn nhân cách của tầng lớp trí thức Việt Nam hôm nay:
Một là, xuất phát điểm
và nền tảng văn hóa xã hội của dân tộc thấp. Là một nước thuần nông và nghèo
đói người Việt gần như quanh năm chỉ lo cày cấy và chống giặc ngoại xâm. Cả dân
tộc, vì thế, không có truyền thống văn hóa, tư tưởng gì có thể mang đi “xuất
khẩu” trái lại còn bị ảnh hưởng, lệ thuộc nặng nề từ ngoại bang phương Bắc.
Hai là, sự “đứt gãy văn
hóa” do những biến cố lịch sử dân tộc mấy nghìn năm chiến tranh loạn lạc liên
miên. “Thắng làm vua làm giặc” – như một thói quen tất yếu trong truyền thống
phương Đông, “bên thắng cuộc” bao giờ cũng vậy việc đầu tiên sau khi đã nắm
trọn quyền hành là truy tầm, thanh trừng những mầm mống còn sót lại của kẻ thù;
sau nữa là “đốt sách, chôn nho” vừa để diệt trừ hậu họa vừa để thỏa mãn thói
kiêu ngạo của kẻ thắng trận. Hậu quả là, những giá trị của triều đại cũ mất đi
trong khi các giá trị mới chưa kịp định hình, sự đứt gãy cứ liên tục như thế
làm cho con người và xã hội lạc lõng, ngơ ngác không biết bấu víu vào đâu.
Ba là, trong một xã hội
chuyên chế, độc tôn có thể thấy từ sau khi đất nước thống nhất đến nay, Việt
Nam không sản sinh ra được những cá nhân có tầm ảnh hưởng sâu rộng, nói như
Trần Hữu Dũng đây là “thời vắng những nhà văn hóa lớn” có thể dẫn dắt, khai mở
cho đám đông dân chúng.
Một dân tộc không có tư
tưởng, suốt chiều dài lịch sử hết lo chuyện miếng ăn lại quay cuồng trong các
cuộc chiến trước hết là một bất lợi nếu không nói là một định mệnh đầy bi kịch.
Để yên ổn và thoát khỏi bi kịch điều tất yếu là phải tìm cách “ẩn mình”, “biến
hình”, ngụy tạo nhằm đối phó và thích nghi. Thế nên, sự đa nhân cách của người
Việt hôm nay phải chăng là một vấn đề thuộc về căn tính dân tộc có tính lịch
sử?
Dẫu vậy, lịch sử đã
nhiều lần sang trang, thời đại hôm nay đã khác, lẽ ra, người Việt đã có thể cải
thiện hình ảnh và tự giải thoát cho chính mình nếu như biết nắm bắt cơ hội
trong thế giới mở. Nhưng tiếc thay, trong một xã hội chuyên chế, sự độc đoán,
độc tài về tư tưởng, một lần nữa đã đóng sập mọi cánh cửa để cho cả dân tộc có
thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu ở phương diện tư tưởng, văn hóa, giáo
dục, nghệ thuật… - những yếu tố quan trọng làm nên phẩm cách dân tộc, phẩm cách
quốc gia…
Người Việt hôm nay không
những không thoát ra được cái vòng luẩn quẩn mấy ngàn năm mà ngày một bị rối
loạn thêm hơn. Vì để được tồn tại tất cả gần như buộc phải tiếp tục “hóa
trang”, “hóa thân”, “nhập vai” để che giấu con người thật, nhân cách thật của
mình một cách thuần thục và tinh vi hơn.
Hẵn chúng ta đã nghe
những câu nói có tính khái quát về những vấn đề liên quan đến đời sống, xã hội
và con người hôm nay như: “thằng đó đảng viên mà tốt”, “công an nhưng chơi
được”, “quan chức, lãnh đạo mà tử tế”, “nhà văn mà không hèn”, “nhà báo mà
không làm tiền”, “khen cho nó chết”, “cái gì không mua được bằng tiên sẽ mua
bằng số tiền lớn hơn”, “nghèo thì nó ghét, đói rét nó khinh, thông minh nó tìm
cách tiêu diệt”… Ngôn ngữ là tư duy, những câu nói ngắn nhưng phản ánh rất rõ
tâm thế của một xã hội mà ở đó những người trí thức với vai trò dẫn dắt đã thật
sự đánh mất chính mình; cho thấy sự hoang mang, bấn loạn và mất niềm tin của
con người trong xã hội.
Ở phương diện khác, văn
chương nghệ thuật vốn không có biên giới; có người nói văn chương nghệ thuật số
phận con người, là tâm hồn dân tộc… Nhưng có lẽ chỉ ở Việt Nam là có “văn nghệ
công an”, “văn nghệ quân đội”… cùng những cuộc thi với chủ đề “người lính”,
người công an nhân dân... Chẳng lẽ tâm hồn và số phận dân tộc Việt Nam chỉ gói
gọn trong các chủ đề ấy? Chắc chắn là không phải vậy. Nhưng từ hiện tượng này
và nhìn rộng ra nhiều lĩnh vực khác nữa, cho thấy người trí thức trong xã hội
Việt Nam hôm nay đang ở vào tình thế, tình huống rất ngặt nghèo: nếu muốn tiến
thân thì phải chấp nhận biến hình, thỏa hiệp thậm chí bán rẻ nhân cách.
Là nhà văn, nhà báo
nhưng đồng thời còn là một đảng viên, một sĩ quan, một quân nhân với lời thề
tuyệt đối trung thành với Đảng thế thì anh sẽ phản ánh, phản biện như thế nào
trước những bất công xã hội mà bản thân anh trong tư cách một con người đã nhận
thấy rất rõ cái nguyên nhân cốt tử của nó? Nếu không có dũng khí và lòng tự
trọng chỉ còn một cách duy nhất là phải tiếp tục làm “tháp Bayon 4 mặt”; tiếp
tục “diễn” thôi. Nhưng “diễn” như thế nào? Nếu diễn nhạt anh sẽ không có đất
sống, không có lợi cũng chẳng có danh; ngược lại chỉ cần diễn tốt một hoặc tất
cả các vai mặc nhiên và chắc chắn anh là kẻ trí trá, lọc lừa, gian dối (trước
hết là với chính bản thân mình).
Là một trí thức – “lương
tâm thời đại” quan trọng và trước hết anh phải là người chính trực, cương trực,
tự trọng cả trong suy nghĩ và lời nói, hành động. Người trí thức không thể bù
khú, tụm năm tụm ba với bạn bè ở quán cóc vỉa hè thì hùng hổ, lớn tiếng mắng
chửi, coi khinh quan chức lãnh đạo trong bộ máy công quyền nhưng khi gặp họ
trong cuộc họp thì khép nép, bợ đỡ, luồn cúi xin chụp ảnh để làm kỷ niệm (thực
ra là để tiếp tục khoe, lòe người khác “tao mới ngồi với ông Chủ tịch…” );
không phải lên mạng xã hội đóng vai nhà dân chủ với tư tưởng cấp tiến giả vờ
công kích những chủ trương chính sách sai lầm của nhà cầm quyền nhằm lấy lòng
đám đông chúng nhưng mặt khác lại âm thầm, lén lút “đi đêm” với thành phần biến
chất để thao túng, lũng đoạn tất cả.
Là Giáo sư, Tiến sĩ, nhà
giáo anh không được vừa lớn giọng bảo ngành giáo dục phải thay đổi quy trình,
nâng chuẩn đầu ra trong đào tạo nhưng lại nhận phong bì để thông qua các công
trình, luận án mà bản thân anh biết là kém chất lượng, không đạt yêu cầu.
Là nhà báo anh không thể
vừa là cây bút chủ lực trong việc tuyên truyền trên báo chính thống về những
câu chuyện tử tế nhưng đồng thời lại một facebooker, một Klos vừa tạo ra sự
khủng hoảng để sau đó nhận giải cứu truyền thông bất chấp đạo đức nghề nghiệp;
không thể trên báo chính thống thì anh ngoan ngoãn lấy lòng lãnh đạo nhưng lên
mạng xã hội thì anh như con ngựa chứng dẫn dắt đám đông bằng những chiêu trò,
câu chữ õng ẹo, rẻ tiền; hoặc khi đương chức với vai trò lãnh đạo anh đã gạt
phăng những bài viết chân thực, ruột gan của đồng nghiệp và cấp dưới nhưng khi
về hưu thì lại huênh hoang tự nhận mình đã từng phải khổ sở bảo vệ, thanh minh
cho họ với cấp trên…
Là nhà văn, nhà thơ, nhà
nghệ sĩ anh “không thể quay lưng với đồng bào để nhận huân chương của
nhà nước; không được phản bội nhân dân để hưởng bổng lộc triều đình” (Bùi
Chí Vinh) rồi cao ngạo, rao giảng về sứ mệnh nọ kia của người nghệ sĩ hay văn
chương nghệ thuật…
Đến đây, có thể nói sự
lạc hậu, trì trệ và suy đồi về đạo đức văn hóa ở xã hội Việt Nam hôm nay âu
cũng là một lẽ tất yếu. Bởi chân thành mà nói, hiện tại Việt Nam không có một
tầng lớp trí thức đặc biệt là trí thức tinh hoa đúng nghĩa.
Thay lời kết
Trong các báo cáo mang
tính tổng kết về văn hóa xã hội Việt Nam thời gian qua, không ít người (nhà
nghiên cứu, nhà cầm quyền…) cho rằng mạng xã hội (trước đó là “mặt trái của
kinh tế thị trường”) là nguyên nhân chính gây ra sự loạn chuẩn hay xuống cấp về
đạo đức văn hóa của đất nước. Kết luận này không phải không có những hạt nhân
hợp lý của nó nhưng nếu chỉ như thế thì không những rất phiến diện mà còn dễ
dãi. Đặc biệt nó mang nặng tính đổ lỗi, đổ thừa cho những yếu tố “bên ngoài”
hơn là dũng cảm nhìn nhận, suy xét đến các “yếu tố bên trong” nhất là vấn đề
thuộc về tinh thần và thái độ của tầng lớp trí thức trong xã hội
– một trong những nguyên sâu xa và cốt tử nhất.
Mạng xã hội, suy cho
cùng chỉ là phương tiện góp phần thúc đẩy và phơi bày tất cả những ngỏ ngách
trong tâm hồn của dân tộc này một cách mau lẹ, nhanh chóng và trần trụi hơn mà
thôi. Cái tâm hồn của một dân tộc có bề dày lịch sử mấy ngàn năm nhưng vẫn chưa
chịu trưởng thành với những biểu hiện như: cảm tính, xốc nổi, chia rẽ, sân hận,
chỉ thấy những mối lợi trước mắt mà không suy nghĩ đến hệ lụy lâu dài…Vì thế mà
thường xuyên bị ngoại bang lợi dụng, bắt nạt, cai trị…
Người xưa nói,
“quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” huống hồ là một kẻ sĩ, một trí thức có
điều kiện và cơ hội hơn các thành phần khác. Thế nên, thiển nghĩ, muốn thay đổi
hiện trạng này, điều quan trọng nhất mà tầng lớp trí thức nước nhà hôm nay cần
phải ưu tiên thực hiện đó là phải biết xấu hổ với chính bản thân mình; phải
biết xấu hổ trước sự rệu rã, băng hoại đạo đức xã hội mà chính mình đã và đang
vô tình hay cố ý góp phần bằng vô số các vai diễn khác nhau trên sân khấu cuộc
đời để kiếm lợi, kiếm danh. Bằng ngược lại, nếu không thức tỉnh, không biết xấu
hổ cũng đồng nghĩa với việc chà đạp lên cái “lương tâm thời đại”. Nhưng nếu như
thế thì chắc chắn đó thái độ và hành vi của những kẻ vô liêm sỉ.
CT, Rằm tháng giêng năm
Tân Sửu (25/02/2021)
Q.H.N
Tác giả gởi cho viet-studies ngày
25-2-21
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét