Việt Nam cần một nền văn minh tổng hợp đông tây kim cổTạ Dzu
29.10.2021
Trong cuốn Triết Lý Lý Đông A, Tiến sĩ Phạm Khắc Hàm nhận định rằng thế kỷ 20 là một thế kỷ “bản lề” của lịch sử con người, “đánh dấu một nếp gãy trong cách thức sống và tư duy của nhân loại.”[1]
Ông đưa ra giản đồ tri
thức giải thích tư duy trải hàng vạn năm chỉ la đà ngang ngang trục hoành. Đầu
thế kỷ 20, đường biểu diễn tri thức cong dần rồi vọt thẳng lên theo trục tung,
với “Thuyết Tương Đối Đặc Biệt nêu lên tính chất tổng thể của không-thời gian
và phá sập nền tảng của cơ học Newton. Thuyết Tương Đối Tổng Quát mô tả Vũ trụ
bằng hình học 4 chiều Riemann, và mở đường cho các nhà khoa học nghiên cứu bản
thể Vũ trụ, một lãnh vực xưa kia thuộc siêu hình học. Thuyết Cơ học Nguyên Lượng
nghiên cứu bản thể của Vật chất, một lãnh vực khác của siêu hình học và thêm một
lần nữa, tàn phá những gì còn sót lại của nền tảng tư duy…”, tựa như một “cơn
bão trong thời gian và trong tâm thức” với sức “tàn phá kinh khủng”. Bởi theo
ông, “các chuyện mà cách đây khoảng trăm năm, chỉ có các thần linh mới có thể làm
được thì bây giờ đã trở thành chuyện tầm thường đến nỗi ai nấy đều cho là chuyện
đương nhiên, như mắt nhìn xa vạn dặm (thiên
nhãn thông), tai nghe xa vạn dặm (thiên
nhĩ thông), bay trên trời như chim (thần
túc thông)…”
Thế
kỷ 20, nhân loại cũng chứng kiến hầu như toàn Á châu và Phi châu đều nằm “trong
vòng nô lệ. Bây giờ tất cả đã được giải phóng và con đường dân chủ là bất khả
phản hồi…”
Nhưng
“nô lệ” và “giải phóng” đều nằm trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng
sản, cả hai đều thoát thai từ phương Tây, kéo dài từ cuộc ganh đua duy vật-duy
tâm tranh chấp nhau, kéo cả nhân loại vào cuộc chiến mà nước ta là nạn nhân bi
thảm nhất.
Tất
cả các biến cố xảy ra trong thế kỷ 20, từ xã hội, chính trị, quân sự đến khoa học,
triết học… liên quan với nhau “như những mắt lưới”. Vẫn theo Tiến sĩ Phạm Khắc
Hàm, chúng thay đổi, nổ tung đến mức tạo ra những cơn địa chấn làm “rung chuyển
địa cầu.”
Nhưng
nếp gãy tăng trưởng của tri thức lại ứng với “khủng hoảng tư duy” vì “kiến thức
ào ào đổ tới như thác lũ, tâm thức phải đổi thay cho phù hợp với sự hiểu biết mới.
Nếu không thay đổi kịp thời, người ta sẽ cảm thấy bất an…” Nhưng thay vì thay đổi
tâm thức, cả nhân loại lại phải lao theo phương Tây trong cuộc tranh chấp ý thức
hệ tả hữu, cộng sản và tư bản.
Tộc
Việt với nền văn minh lúa nước, thấm nhuần nguyên lý âm dương (hèm Tiên Rồng),
biết cách thống nhất các khác biệt đối lập, hợp tan, tranh chấp tả hữu của cuộc
sống qua nhiều câu chuyện trong huyền sử, ca dao tục ngữ, được thể hiện ngay trong
ngôn ngữ và cuộc sống hằng ngày, hẳn có khả năng đưa ra một tầm nhìn mới hợp thời
đại, mở ra nước Đại Việt thời 2000, tiếp nối Đại Việt 1000 (Lý-Trần), tương xứng
với bề dày lịch sử và văn hoá trải dài hàng vạn năm, từ huyền sử sang chính sử.
Việt
Nam hết thoát Hán thì lệ thuộc Pháp. Thoát Pháp lại quay cuồng trong cơn lốc
tương tranh Nga-Mỹ. Giờ lại đang bị Hán hoá dưới vỏ bọc chủ nghĩa cộng sản của
hai đảng anh em, và đang kẹt trong tương tranh mới Mỹ-Trung.
Làm
thế nào để Việt tộc thoát khỏi các gọng kìm nguy hiểm có thể dẫn tới diệt vong,
không chỉ về mặt thể chất mà cả về tinh thần? Bởi nếu không độc lập về văn hoá
sẽ không tạo được độc lập chính trị, tức không có nền độc lập siêu nhiên.
Với
những thay đổi triệt để khốc liệt nêu trên, nếu không loại bỏ được tranh chấp
giữa những người trong tộc Việt với nhau để cùng chống lại cuộc Hán hoá mới, lồng
trong thế tranh hùng Mỹ-Trung thì họa diệt vong đã rất cận kề.
Nhưng
loại bỏ tranh chấp không có nghĩa bên này phải theo bên kia, nhưng là cùng trở
về với cái nôi dân tộc, nơi dung chứa mọi dị biệt và cũng là nơi dễ tạo được một
mẫu số chung cần thiết. Bởi trong thế kỷ vừa qua, hai miền Nam Bắc đã bị lôi cuốn
vào cơn lốc tương tranh quốc tế của hai tầm nhìn phiến diện, hoặc nghiêng về
tinh thần (duy tâm), hoặc thiên về vật chất (duy vật), trong khi văn hoá Việt
đã hoá giải được các khác biệt để thống nhất đối lập từ ngàn xưa (truyện Gậy Thần
và Sách Ước).
Lý
Đông A, tên thật là Nguyễn Hữu Thanh (1920-1946?), Thư ký trưởng Đảng Đại Việt
Duy Dân, nhà cách mạng mang tâm chất của một nhà tư tưởng và nhà thơ, kết tinh
của dân tộc Việt đã làm công cuộc kiểm thảo lại toàn bộ tri thức nhân loại từ cổ
chí kim, dựa trên nền tảng văn hoá dân tộc, đã tập đại thành (đại tổng hợp), sáng
tạo triết thuyết Nhân Chủ, bổ khuyết cho cả tâm-triết lẫn vật-triết. Ông trình
bày triết thuyết của ông trong một bộ sách mà ông đặt tên là “Việt Duy Dân Quốc
Sách Thảo Án Toàn Pho”.[2]
Tiến
sĩ Phạm Khắc Hàm cho rằng triết học phương Đông được xem như đã hoàn chỉnh từ
hai ngàn năm trước và gần như nằm toàn bộ trong các tác phẩm cổ điển như Tứ
Thư, Ngũ Kinh, Bách Gia Chư Tử… của Trung Quốc, hay Áo Nghĩa Thư, Kinh Vệ Đà của
Ấn Độ, hoặc Tam Tạng kinh điển của Phật giáo, với số lượng từ giới hạn và những
thuật ngữ quen thuộc nên tương đối dễ hiểu. Trái lại, triết Tây có thể xem như
luôn “trong tình trạng đang hình thành”, họ tìm những ý niệm, đề tài mới, vùng
hoang vu của tri thức nên phải tạo ra những từ ngữ mới. Lý tiên sinh có sự
tương đồng là cũng “rời bỏ các đường mòn để khai phá những lãnh vực hoang sơ của
tư tưởng”, vì thế mà ông cần có từ vựng riêng, ngoài những Hán tự có thể tìm
trong các từ điển.
Vì
soạn thảo gấp rút trong một thời gian quá ngắn, lại còn phải lập đảng chống
Pháp và cộng sản, Lý Đông A chưa có thì giờ triển khai tư tưởng của ông. Như một
triết gia, ông phải sử dụng những thuật ngữ mới, từ ngữ rất chính xác, lý luận
khúc chiết và mạch lạc, nhưng cách hành văn quá súc tích và câu văn thường quá
tóm gọn nên tài liệu của ông rất khó đọc. Tuy nhiên, trong một câu văn thường
có những chữ chủ yếu, ở cả ba vị trí chủ từ, động từ hoặc túc từ, hãy đọc lướt
cả câu và nắm bắt những chữ chủ yếu đó, sắp xếp lại cho hợp lý, câu văn sẽ sáng
tỏ. Đó là kỹ thuật đọc bằng trực giác hay vô thức mà cách phân tích theo khoa học
thường không thực hiện được.
Ông
đi trước thời đại và thuận chiều chứ không ngược thời đại, và vì học thuyết của
ông tổng hợp cả ba ngành học sử-khoa-triết[3] (từ quá khứ đến tương lai) một cách thống nhất,
nên càng tham chiếu nhiều sách báo theo ba khoa trên mà ông gọi là “căn bản học”
(sử, khoa, triết), càng dễ tìm hiểu tư tưởng Lý Đông A.
Để
khởi đầu đi vào tư tưởng của ông, trước hết cần tìm hiểu người là gì? Những điều
nào tạo nên con người? Người khác vật ở chỗ nào? Có thấu đáo người là gì mới
thiết kế được một xã hội theo cách sống của loài người.
Thế nào là người?
Đông
tây kim cổ, các triết gia đều cố gắng tìm hiểu xem người là gì, khác biệt với
các giống khác ra sao? Chẳng hạn tư tưởng Đông phương xem người là “đức của trời
đất”, được xem như ngang hàng với trời đất trong ba ngôi vị trời-đất-người. Khổng
Tử tuy không định nghĩa rõ rệt nhưng cho rằng người quân tử phải làm điều chân
chính; tu thân tề gia; giữ mối cương thường (tam cương ngũ thường) và cai trị bằng
đạo đức. Mạnh Tử cho rằng người có tính thiện (nhân chi sơ, tính bản thiện);
quân tử phải có hạo nhiên chính khí, lấy đức thu phục người.
Bên
trời Tây, Aristotle cho rằng người là sản phẩm của xã hội. René Descartes quan
tâm đến tư tưởng nên ông phát biểu: Tôi tư duy; do đó tôi hiện hữu (I think;
therefore I am). Cũng thế, Blaise Pascal cho người là một cây sậy có tư tưởng.
Karl Marx chi tiết hơn, ông cho rằng người là sự thống nhất và chịu sự tác động
giữa hai mặt sinh vật và xã hội. Marx sáng tạo thuật ngữ “lao động” và cho rằng
qua lao động mà vượn thành người.
Tóm
lại, qua sự tìm hiểu của các triết gia đông tây kim cổ, tuy mỗi người nhận ra một
khía cạnh khác nhau nhưng tựu trung, có thể tóm kết như sau: con người là loài
sống trong thiên nhiên, chịu sự tác động của thiên nhiên, có tư tưởng và có xã
hội tính.
Tự nhiên, Tư tưởng và Xã hội thống
nhất
Đây
là cái nhìn tổng hợp của Lý Đông A khi ông cho rằng ba phạm trù tự nhiên, tư tưởng
và xã hội thống nhất nơi con người.[4]
Tương
tự với tầm nhìn của Lý tiên sinh, nhà vật lý và lý thuyết hệ thống (system
theorist) Fritjof Capra trong cuốn The
Systems View of Life[5] nêu lên một tầm nhìn hệ thống có tính thống nhất
(unified systemic vision) của đời sống bao gồm các khía cạnh sinh học [tự
nhiên], nhận thức [tư tưởng], xã hội và sinh thái (intergration of life’s
biological, cognitive, social and ecological dimensions).
Khoáng
sản, động vật, thực vật… thuộc phạm trù tự
nhiên, nuôi dưỡng con người. Văn học, nghệ thuật, lòng can đảm, tình yêu nước…
thuộc phạm trù tư tưởng. Người không
thể sống một mình mà sống chung với những người khác, thuộc phạm trù xã hội. Vậy người là một tổng hợp của cả
ba phạm trù tự nhiên, tư tưởng và xã hội. Điều này giúp người nhận ra rằng khi
khai thác thiên nhiên để làm phong phú đời sống thì cũng phải tìm cách bảo tồn
thiên nhiên, bởi huỷ hoại thiên nhiên, con người cũng tàn lụi.
Tất
cả mọi hiện tượng sống liên quan đến người đều bao gồm ba phạm trù trên, chẳng
hạn “cái bàn”. Bàn được làm bằng gỗ hay sắt, thuộc phạm trù tự nhiên. Thiết kế bàn
như thế nào, ba hay bốn chân, thuộc phạm trù tư tưởng. Danh từ “cái bàn” do xã
hội đặt tên, thuộc phạm trù xã hội.
Lý
Đông A còn đi xa hơn khi tìm hiểu về con người. Ông thấy rằng ngoài ba phạm trù
thống nhất nơi mỗi người nói trên, người còn có khả năng tu chỉnh tự nhiên để
thành người.
Khả năng tu chỉnh tự nhiên
Con
người khởi đầu bằng cuộc sống hoang sơ. Từ hoang sơ, người tiền sử đã dần biết sáng tạo các dụng cụ đơn giản. Các nhà
nhân chủng tìm thấy các viên đá được đẽo cho sắc bén, các mảnh đá nhọn và búa
đá cách đây hai triệu năm. Họ còn biết di chuyển đá từ nơi này đến nơi xa khác
để săn bắt. Dù chỉ là các dụng cụ thô sơ, chúng đánh dấu những giai đoạn đầu
tiên về khả năng người tiền sử có thể thay đổi (đẽo đá cho nhọn sắc) và sắp xếp
lại môi trường chung quanh (alter and rearrange the surroundings).[6]
Khả năng biến đổi môi trường cho thuận tiện và phù hợp với
mình đã trở thành nền tảng cho đời sống nhân loại mà Lý Đông A gọi là sự tu chỉnh tự nhiên. Nhận xét này tương đồng
với quan sát của nhà Cổ Sinh học (Paleoanthropologist) Rick Potts khi ông ta
cho rằng: “Sự khác biệt giữa con người ngày nay với các giống người [tiền sử]
thân cận đã tuyệt chủng là những sự thích nghi cơ bản của chúng ta dựa nhiều
vào khả năng thay đổi môi trường chung quanh. Đây là phương thức sống còn của
chúng ta”[7].
Nhìn sâu xa hơn Rick Potts, Lý tiên sinh nhận thấy khả năng
thay đổi môi trường sống (tu chỉnh tự
nhiên) không chỉ là “phương thức sống còn” mà còn làm cho con người thành tựu
và tiến hoá luôn mãi: “Loài người thành tựu
được là bởi
sự tu chỉnh tự nhiên, nó là cuộc cách mạng tối sơ của loài người, nó là động cơ
tiến hóa không dứt, nó là nét phác cần yếu nhất của cương thường”[8].
Hàng triệu năm qua, nếu tổ tiên chúng ta chỉ biết săn bắt hái lượm thôi thì
không thể tạo được nền văn minh như ngày nay.
Một
trong những khả năng tu chỉnh tự nhiên là trồng trọt. Hạt cây từ trái chín rụng
xuống đất thì chỉ thụ động chờ mưa thuận gió hoà mới mọc lên. Con người trái lại,
chủ động đem hạt đi trồng, không chỉ tại chỗ mà còn ở những nơi thời tiết thích
hợp, vun tưới bón phân để thu hoạch cao hơn. Lý tiên sinh gọi đó là “tái
sinh sản bởi loài người đối với tự nhiên sinh sản”[9]. Thuần hóa súc vật, dùng lửa nấu
chín thức ăn, biết giữ vệ sinh… cũng mang ý nghĩa tương tự.
Đất
trời hiện hữu từ muôn thuở nhưng chỉ người mới biết phân chia thời gian cho có
đầu có cuối, xuân hạ thu đông, rồi cứ thế tiến hoá. Sự xuất hiện của người đã làm
cho đời sống có ý nghĩa. Người “lập tâm cho trời đất, lập mệnh cho nhân sinh, kế
vãng khai lai”.
Lý
tiên sinh nhận thấy người còn khác các động
vật khác ở nhân tính, trái ngược với thú tính.
Xã Hội Tự Tính
Lý
Đông A cho rằng xã hội được thành lập thông qua xã hội tự tính, bao gồm: sắc tính (nhu cầu duy trì và phát triển
nòi giống), nhu yếu tính (ăn, ở, mặc…), và xã hội tính (nhu cầu hợp quần). Qua
ba ‘tính’ này, người quần tụ với nhau mà thành xã hội. Bất cứ xã hội nào khi được
thành lập đều từ các tính trên, được ông gọi là xã hội tự tính. Ngoài ra còn tự vệ tính là thuộc tính của tính xã hội
trong giai đoạn đầu đấu tranh với tự nhiên.[10]
Nhân Tính
Nhưng
nếu chỉ dừng ở đó, ta chưa thấy rõ nhân tính. Xã hội tự tính mới chỉ là ‘thiên
tính’. Con ong, cái kiến cũng đều có các tính đó. Vậy đâu là nhân tính?
Khởi
đầu, do bộ óc chưa triển nở, nhận thức thấp nên người sống như các động vật
khác: cũng ăn lông ở lỗ, ăn sống nuốt tươi, đực cái lẫn lộn, ỷ mạnh hiếp yếu
v.v… Dần dà, người nhận ra rằng không thể sống như động vật mà cần phải tiến
hoá, hướng thượng thăng hoa để sống một đời người thay vì là kiếp vật.
Về
sắc tính, người chuyển từ quan hệ đực cái sang nam nữ, vợ chồng, và thiết lập các
nghi thức kèm theo. Sự trung trinh với
nhau trong cuộc sống hôn nhân được chọn làm tiêu chuẩn, không còn là đực cái nữa.
Với
nhu yếu tính (ăn, ở, mặc…, quy mô lớn hơn được gọi là kinh tế), người thấy rằng
tranh đoạt hơn thua về vật chất không phải là cách sống của loài người mà cần
phải tạo bình đẳng về cơ hội, nghĩa vụ
và quyền lợi trong việc tạo dựng và hưởng dụng tài nguyên thiên nhiên cũng như
của cải tạo ra.
Khi
cơ hội, nghĩa vụ và quyền lợi càng bình đẳng, chênh lệch giàu nghèo trong xã hội
càng ít cách biệt, mọi người không phải quá lo cho cơm áo gạo tiền bởi thành quả
lao động được phân chia tương đối đồng đều (bình đẳng về quyền lợi).
Tại
Mỹ, hệ thống đại học có một số trường nổi tiếng và mắc mỏ (ivy league schools),
nhiều trường không tiếng tăm với học phí rẻ. Tạm thời loại bỏ những yếu tố ảnh
hưởng đến việc nhập học thì hai người tốt nghiệp ở hai trường với cùng một ngành
sẽ được trả lương khá cách biệt, có khi gấp đôi. Như vậy cơ hội giáo dục chưa
bình đẳng, đem đến cơ hội tiến thân trong xã hội sẽ rất khác nhau. Các nước Bắc
Âu đã giải quyết việc này khá ổn thoả bằng cách thiết lập một hệ thống đại học
bình đẳng. Sinh viên học sinh không phải trả chi phí giáo dục từ tiểu tới đại học.
Giả
sử sinh viên tốt nghiệp từ trường không mấy tiếng tăm, sau một thời gian cố gắng
học tập và làm việc đã vươn lên mức lương tương đương với người tốt nghiệp từ
trường nổi tiếng. Hai người này sẽ phải đóng một mức thuế thu nhập như nhau (same
tax bracket). Như vậy nghĩa vụ đóng thuế có thể xem như không bình đẳng bởi sự
phát xuất của hai sinh viên đến từ hai ngôi trường rất cách biệt.
Tại
Nhật, người ta quy định lương giám đốc chỉ hơn lương công nhân một mức nào đó
thôi. Bắc Âu cũng tương tự, có quốc gia còn dành quyền quyết định các mức lương
bổng cho sự thương lượng giữa hiệp hội chủ nhân và đại diện nghiệp đoàn. Nhờ
đó, cách biệt giàu nghèo không cao như ở Mỹ.
Nếu
là công ty được niêm yết trên sàn chứng khoán, người ta có thể làm nhiều hơn thế
để giới hạn cách biệt, chẳng hạn hai giới chủ nhân và công nhân có thể thương
lượng để công nhân, tuỳ theo tài năng và mức thâm niên mà được hưởng bao nhiêu
cổ phiếu của công ty, bởi sự thành đạt của công ty có phần đóng góp rất lớn của
tầng lớp công nhân.
Điều
này là quan trọng để chính người dân quyết định lấy đời sống kinh tế, giảm bớt sự
can thiệp của nhà nước hoặc lũng đoạn của các đảng phái.
Nhân
nói về người dân quyết định lấy đời sống mình (dân chủ nhân chủ) xin mở một dấu ngoặc. Xã hội Việt trong giai đoạn
cường thịnh nhất (Lý-Trần), hệ thống chính trị được phân chia khá rõ rệt: những
gì liên quan đến cả nước, thuộc trách nhiệm của trung ương thì triều đình quyết
định (trung ương tập quyền). Chẳng hạn việc tổ chức hệ thống phòng thủ chống giặc
(tức quốc phòng – toàn dân vi binh, toàn địa vi phòng), ngoại giao, an toàn xã
hội… Nhưng những gì thuộc về địa phương thì địa phương tự quản (địa phương phân
quyền) đến độ phép vua cũng phải dừng lại trước cổng làng (phép vua thua lệ làng).
Điều
này là hợp lý bởi triều đình xa xôi, không biết những thuận lợi cũng như khó khăn
của từng địa phương nên địa phương quyết định là hiệu quả nhất. Xem như thế thì
hệ thống chính trị thời Lý-Trần và Lê Thánh Tôn - trung ương tập quyền, địa phương
phân quyền - gọi là đan quyền[11] (tạm hiểu quyền trung ương và địa phương đan xen
nhau) rất thuận lợi cho nền dân chủ hiện đại, với sự phân công hợp lý, mỗi người
mỗi việc, hợp tác với nhau để công việc chung được hoàn thành mãn nguyện (thay
cho hệ thống phân quyền mà giằng co đảng phái hiện nay).
Chúng
tôi trích lại một đoạn trong Việt Sử
Thông Luận (trang 28) của Lý Đông A về chính trị thời Lê Thánh Tôn dưới
đây, và qua thể chế liên bang hiện hành (một chính quyền trung ương mạnh, địa
phương phân quyền – nhìn theo hàng dọc), ta có thể hình dung phần nào cơ chế
đan quyền: “…Đến
đời Lê Thánh Tôn, sự kiến thiết mới quy định và thực hiện, các làng được tự trị
(theo Lạc Chế), ruộng đất cùng chia đều (công điền) nhưng cũng cho những người
có tiền tậu để làm tư sản; chính trị vừa phân quyền (làng) vừa trung ương tập
quyền (triều đình), pháp luật làm mới lại và rất rộng rãi kỹ lưỡng, giáo dục mở
rộng (24 điều giáo hóa ra khắp dân chúng).”
Trong
tài liệu Duy Dân Cơ Năng (trang 31),
hệ thống đan quyền cho nước Việt tương lai được đề xuất vận hành theo Thuyết Bản
Vị, tinh tế và hữu hiệu hơn thể chế phân quyền, tức tam quyền phân lập của các nền
dân chủ hiện đại.
Điểm
cần lưu ý là “trung ương tập quyền” không phải “dân chủ tập trung” kiểu cộng sản.
Tập quyền là để có những quyết định nhanh gọn mà hiệu quả, hợp tình hợp lý, phù
hợp với tình thế và quyền lợi quốc gia, thực sự được quyết định bởi các ‘đại biểu
quốc dân’ (các quan từ các địa phương trong triều). Dân chủ tập trung do các đại
biểu của đảng (không phải của dân) quyết định. Bầu bán chỉ là hình thức. Do đó
quyền lợi đảng đi trước quyền lợi dân, và nếu muốn, đảng có thể ngồi trên luật
pháp quốc gia.
Khi
đại đa số người dân đều có cuộc sống ổn định khá giả (gọi là ‘tư bản xã hội hoá’),
lương bổng và tài sản được phân bổ tương đối đồng đều (bình sản) thay vì ngày càng tập trung vào 5, 10% ít ỏi trên đỉnh, khi
đó các nhà nước phúc lợi (welfare states) không phải mang gánh nặng nợ nần cho
những khoản trợ cấp xã hội to lớn. Hơn nữa, văn hoá Việt cổ suý sự cùng sống (bầu
bí chung giàn) chứ không tranh sống, nên thành công của xã hội là thành quả
chung của cả tập thể và cộng đồng; do vậy bình đẳng cơ hội, nghĩa vụ và quyền lợi
lại càng thích hợp với văn hoá Việt.
Tại
châu Âu, các nước lớn như Pháp, Đức, Ý hay Tây Ban Nha, trong một hai thập niên
tới dân số sẽ già đi, không đủ người trẻ đi làm để đánh thuế nuôi người lớn tuổi
và chi phí cho các chương trình xã hội khác. Họ chỉ có hai giải pháp: hoặc đánh
thuế luỹ tiến rất cao với những ai đang trong tuổi lao động, vốn đã chịu mức
thuế cao, hoặc phải cắt giảm trợ cấp xã hội tối đa. Cả hai giải pháp đều rất khó
thực hiện. Khi gặp giải pháp khó sẽ dễ tạo ra các chính khách mị dân, hứa nhiều
để thắng cử chứ không giải quyết được bao nhiêu, trong khi quyền lực và quyền lợi
lại thường là hưởng nhiều hơn người dân bình thường. Trung Cộng cũng sẽ phải đối
phó với tình trạng dân số già nua trước khi thực hiện được giấc mơ cường quốc đứng
đầu thế giới.
Trong
cuốn Capital in the Twenty-First Century,[12] Kinh tế gia Thomas Piketty nhận xét rằng trong thời
đại toàn cầu hoá, những người có bằng cấp và tay nghề cao mới theo kịp các phát
minh công nghệ mới để kiếm được việc làm trả lương cao. Họ có đời sống khá giả,
đầu tư vào nhiều lãnh vực khác nhau nên ngày càng khấm khá hơn. Thu nhập qua đầu
tư rất cao, có thể lên tới 30-40% một năm, trong khi lương bổng của thành phần
trung lưu vừa và thấp chỉ tăng khoảng 5% trong ba thập niên qua, sau lạm phát.
Họ chỉ đủ sống và do giá cả mọi thứ, nhất là tiền thuê nhà tăng cao nên ngày càng
gặp khó khăn.
Chỉ
những người khá giả, giàu có mới có tài sản để lại cho con cháu. Do đó qua một
vài thế hệ, của cải ngày càng tập trung vào 10-20% giàu có nhất. Điều này tạo
ra hai giai cấp giàu nghèo khá rõ rệt trong xã hội, mà giai cấp lại là ‘kẻ thù’
của dân chủ.
Chúng
tôi chỉ nêu ra một vài ví dụ điển hình trong hàng trăm vấn đề mà các nước tiên
tiến hàng đầu đang gặp phải để chúng ta suy nghĩ đến vấn đề thực hiện bình đẳng
cơ hội, nghĩa vụ và quyền lợi trong việc thiết kế nền kinh tế “bình sản” trong
tương lai.
Về
mặt tự vệ và xã hội tính, ở tự nhiên giới (động vật) là mạnh được yếu thua, cá
lớn nuốt cá bé. Người không thể cư xử với nhau như tự nhiên giới mà luôn muốn sống
an hoà bên nhau, và chỉ người mới có
khả năng nghị hoà. Hoà là tiêu chuẩn
của xã hội tính để trở thành nhân tính.
Nhờ
ba tiêu chuẩn của xã hội tự tính là trinh
(trên sắc tính), bình (trên nhu yếu
tính), và hoà (trên tự vệ và xã hội
tính) mà con người có nhân tính.
Theo
Lý Đông A, chính trị là điều lý nhân tính[13] - không phải là tranh đoạt quyền hành dù trong thể
chế đa hay lưỡng đảng - để người được sống theo nhân đạo (đường sống, lối sống
người). Con người càng gần với ba tiêu chí trên, xã hội ngày càng thăng hoa và
càng tiến hoá hướng thượng.
Duy
Nhiên, Duy Nhân, Duy Dân thống nhất
Ngày
nay, ai cũng nhận ra rằng nhân loại là một, dân tộc là nhiều. Hiểu cách khác
thì nhân (loại) là gốc của dân (tộc). Cả nhân và dân đều dựa vào tự
nhiên, cải biến nhiên mà sống nên ‘ba tầng’ nhiên, nhân, dân có liên hệ mật thiết với nhau, không thể vì tư kỷ
khai thác thiên nhiên quá mức gây nguy hại cho môi trường sống chung của loài
người; hoặc chỉ biết mình, dân mình mà xây hết đập này đến đập khác dẫn đến hạ
nguồn bị cạn nước. Cho nên hiến pháp mỗi quốc gia phải nêu bật được cương thường
(nguyên lý sống, không phải tam cương ngũ thường) của cả nhân loại, không chỉ
là giao kèo giữa nhà nước với nhân dân.
Nếu
không thấy được sự nhất quán giữa duy
nhiên, duy nhân và duy dân
(gọi tắt là nhiên, nhân, dân) thì không đưa dân về được với nhân, dân hoà vào nhân khiến dân luôn tranh chấp, khó kiến tạo được một cộng đồng nhân loại
vui sống bên nhau trong một môi trường lành mạnh.
Nhưng
chân lý ở mỗi tầng nhiên, nhân, dân mỗi khác, cần phải thấu triệt và tôn trọng,
hoặc điều chỉnh cho phù hợp khi ứng dụng chân lý ở tầng này vào tầng khác. Nếu
không, sẽ tạo ra hỗn loạn hoặc chiến tranh, như những người cộng sản đã áp dụng
quy luật đối lập hủy diệt (mạnh được yếu thua) trong tự nhiên giới (động vật) của
tầng tự nhiên vào tầng nhân loại và tầng dân tộc; hoặc giới tư bản chỉ mong lợi
nhuận cao, bất chấp có thể gây nguy hại cho người/dân tộc khác như trong vụ giới
này rút vốn ra khỏi Thái Lan năm 1997, Nam Âu năm 2010 gây khủng hoảng kinh tế
cho cả khu vực; hoặc do làm ăn cẩu thả, chỉ nghĩ đến lợi nhuận phần mình mà gây
tai họa cho biết bao người đã bị tiêu tán nhà cửa và tiền tiết kiệm trong vụ khủng
hoảng tài chánh năm 2007-2008 tại Mỹ. Hẳn mọi người còn nhớ những cuộc biểu tình
Chiếm lĩnh giai đoạn đó (Occupy 2011) với phương châm “We are the 99%” (main
treet) chống đối 1% tài phiệt Wall Street vì sự bất bình đẳng về lương bổng và
tài sản.
Vũ
trụ tự nhiên hiện hữu không biết đâu là đầu, đâu là cuối, trùng trùng duyên khởi
và trùng trùng cứu cánh. Do đó chân lý của tầng Duy Nhiên là vô nguyên tương
đối. Khoa học khám phá tới đâu, sự hiểu biết của con người về tự nhiên được
nâng cao tới đó.
Vật
chất có tính tương đối như nước có lúc ở thể lỏng, đặc hoặc hơi. Một phân tử
oxy kết hợp với hai phân tử hydro sẽ tạo thành nước, nhưng oxy cũng là yếu tố làm
hao mòn sắt. Những nhà duy vật chọn vật chất làm tiền đề triết học, vậy chọn ở
“thời điểm” nào? Lúc oxy kết hợp với hydro thành nước hay khi oxy phá huỷ sắt?
Chọn nguyên tử với tính chất riêng biệt hay vũ trụ mang tính bao quát? Cũng vậy,
các nhà duy tâm chọn ý chí tuyệt đối (tinh thần) làm tiền đề. Nhưng không có vật
chất, làm thế nào để tinh thần phát triển?
Hàng
ngàn năm trước, Việt tộc đã biết cách thống nhất âm và dương, tả với hữu, tinh
thần và vật chất để làm phong phú và cân bằng cuộc sống qua biểu tượng Tiên Rồng.
Trong
một thế giới luôn tranh chấp và miệt mài đuổi bắt theo cuộc sống vật chất ngày
nay, tìm lại đời sống quân bình cha ông truyền lại cho chúng ta là điều quan trọng
và cấp thiết.
Như
đã trình bầy ở trên, không có sự xuất hiện của người, vũ trụ hiện hữu cũng thành
vô nghĩa. Vậy chỉ người (Duy Nhân) là
nhất nguyên tuyệt đối.
Người
phải là trọng tâm của triết học. Mọi công trình kiến thiết cần xoay quanh con
người: người làm chủ hoàn cảnh và xã hội (nhân chủ), dựa vào gốc người (nhân bản),
theo đuổi thực hiện phạm trù người cho ‘tính người’ (ba tiêu chuẩn trinh, bình,
hoà) ngày càng thăng hoa và hướng thượng (nhân tính). Vậy nhân chủ, nhân bản, nhân tính (tam nhân) cần trở thành mục
tiêu theo đuổi trong việc xây dựng xã hội người cho mỗi dân tộc.
Do
nhiều yếu tố khác nhau (văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ, địa phương cư trú…) mà nhân-nhất-nguyên
trở thành dân-đa-nguyên. Chân lý của dân (Duy
Dân) là đa nguyên tương đối, cần
phải được tôn trọng. Những người cộng sản đã sai lầm khi muốn phá bỏ dân để chỉ
còn lại nhân trong thế giới đại đồng cộng sản.
Tuy
phân ra ba tầng duy nhiên, duy nhân, và duy dân cho dễ nhận diện, trong thực tại
đời sống, mọi hiện tượng sống đều bao gồm cả ba, cũng như mọi hiện tượng sống
bao gồm: tự nhiên, tư tưởng và xã hội. Chúng luôn luôn thống nhất – ba trong một
- như mỗi người đều có ‘ba con người’: con người cá nhân, con người dân tộc, và
con người nhân loại. Khi ai ai cũng nhận ra trong ta có ba con người như thế thì
cách suy nghĩ, cách sống và cách cư xử với nhau nhân bản hơn, dễ đưa đến một cộng
đồng nhân loại vui sống hoà hài bên nhau hơn.
Vì
không nhận ra chân lý ở mỗi tầng và đặt định mỗi người, mỗi đoàn thể cho đúng với
chức năng và trách nhiệm mà Lý Đông A xét thấy “các hiến pháp cũ, ước pháp trước chỉ có thể gọi được là những ước lệ, ước
luật lâm thời… Tự nó bị hạn chế trong nền tảng và các điều kiện đương thời… nên
ta phải kiểm thảo lại một lượt hết thảy để mà tung hợp một cách khách quan lại
thành những căn tính đồng nhất, những sự lệ tối đồng nhất của loài người [nhân
loại nhất nguyên], lập định những cương
thường… cho nay mai.”[14]
Qua
sự lập định những cương thường đó, ông cho rằng có thể phục hồi lại sinh mệnh
loài người - người tự làm chủ lấy mình, xã hội và môi trường, gọi là nhân chủ; dân tự làm chủ lấy mình, gọi
là dân chủ nhân chủ (hay dân chủ trên
nhân chủ) - không để bị các thế lực kinh tế, chính trị thao túng hay thế lực
siêu hình trói buộc, hoặc biến dân thành vong bản, vong thân.
Thấu
triệt tất cả những điểm quan trọng bầy bên trên, mỗi người, mỗi tập thể sẽ hoạt
động ra sao nhằm đạt được một xã hội ổn định, hoà hài và cùng thăng tiến? Cần có
mô hình để thực hiện. Đó là lý do cho sự ra đời của học thuyết Bản Vị.
Học thuyết Bản vị
Bản
vị là một hệ thống thống nhất, một tổng thể (whole, unit) bền chặt và ổn định,
có tính chất đặc thù, kết hợp bởi các cơ năng thành phần.
Cơ
năng là một cơ cấu có chức năng riêng biệt trong một hệ thống thống nhất (bản vị).
Một hệ thống bản vị được cấu thành bởi nhiều cơ năng thành phần (parts). Mỗi cơ
năng thành phần này có bản sắc và chức năng hoạt động đặc thù nhưng tác động với
nhau một cách hoà điệu mà kết hợp nên hệ thống bản vị. Mỗi cơ năng tự nó lại phải
được cấu thành bởi nhiều yếu tố, do đó bản thân mỗi cơ năng lại là một hệ thống
bản vị. Như thế, mỗi bản vị đồng thời là một cơ năng và mỗi cơ năng đồng thời lại
là một bản vị (ĐNHX).
Lý
thuyết Hệ thống (Systems Theory), Phân tích Hệ thống (Systems Analysis) và Cơ cấu
luận (Structuralism and Functionalism) là những khám phá của khoa học hiện đại,
phù hợp với Học thuyết Bản Vị của Lý tiên sinh.
Khi
chưa thấy được chân lý ở mỗi tầng và chưa biết cách thống nhất các mặt đối lập
giữa tả và hữu, giữa tâm và vật để tạo quân bình, kiến thiết xã hội dễ bị lệch
lạc, đưa đến sự thất điệu giữa các cơ năng thành phần (quốc gia/hội đoàn, chức
nghiệp, gia đình, cá nhân) trong một bản vị chung (quốc tế/dân tộc).
Cơ
năng cần phân công và hợp tác. Bản vị
cần hiệp điệu và thống nhất, như các
ngón tay (cơ năng) trên một bàn tay (bản vị). Mỗi ngón tay tự nó lại là một bản
vị bao gồm da, gân, xương… Đến phiên bàn tay lại trở thành cơ năng, kết hợp với
các cơ năng khác để trở thành bản vị cánh tay. Quá trình vận động và kết hợp này
được gọi là cơ năng hoá.[15]
Chúng
ta có thể hình dung sự vận hành của các cơ năng thành phần chức nghiệp, hội
đoàn như những bánh xe răng cưa ăn khớp với nhau, vận hành nhuần nhuyễn trong một
bộ máy, hay các cơ phận trong cơ thể. Nếu các cơ năng không được phân công đúng chỗ, hoàn thành trách nhiệm
và hợp tác với nhau thì cả guồng máy
không còn hiệp điệu, vận hành nhịp
nhàng thống nhất nữa.
Mỗi
cá nhân vận động và kết hợp với các cá nhân khác để thành lập hội đoàn, tổ chức.
Các hội đoàn vận động và kết hợp với nhau để trở thành xã hội. Trên bình diện
quốc tế, thế giới đang đi vào mô hình cơ năng-bản vị: các quốc gia Đông Nam Á
hay tại châu Âu hợp tác với nhau để trở thành các tổ chức khu vực như ASEAN hay
Liên Hiệp Châu Âu. Các nơi khác cũng đều vận động để đi đến kết hợp như thế
(NAFTA, CPTPP…).
Vậy
vận động và kết hợp là hỗ tương nguyên nhân, như bản vị với cơ năng cũng hỗ tương
nguyên nhân.
Khi
cả thế giới áp dụng mô hình cơ năng-bản vị sẽ dễ dàng xây dựng được “đại đồng
nhân loại” một cách ổn định, chân thực và bền vững. Các quốc gia sẽ tiến lên từ
tiểu đại đồng dân tộc, sang trung đại đồng khu vực rồi đại đại đồng thế giới.
Không thể tạo được quốc tế đại đồng bằng cách loại bỏ bản vị dân tộc hay ‘áp đặt
dân chủ’ như tại Iraq hoặc Afghanistan.
Trong
quá trình vận động và kết hợp để các cơ năng trở thành bản vị sẽ tạo ra một trung tâm bản vị, điều hành bản vị để tiếp
tục vận động và kết hợp với các cơ năng khác hầu trở thành bản vị lớn, mạnh mẽ ổn
định hơn. Trung tâm bản vị thực hiện công việc điều hành và phối hợp chứ không cai
trị để các cơ năng phát huy hết khả năng và tiềm lực, đóng góp vào sự thịnh vượng
tiến bộ của bản vị mới.
Phân công thay phân quyền
Nhìn như thế thì vai trò của nhà nước
cần thay đổi để trở thành trung tâm điều phối mọi hoạt động quốc gia, giúp dân
tự phân chia bổn phận (self-regulating), tạo điều kiện để mọi cơ năng hợp tác với
nhau hoàn thành trách nhiệm (self-governing) trong công việc chung, không còn là
nhà nước cai trị (ruling) nữa.
Mỗi cơ năng bị tổn thương hay không
hoàn tất nhiệm vụ đều ảnh hưởng đến sự ổn định và thăng tiến của cả bản vị. Một
hay nhiều ngón tay bị trầy xước sẽ ảnh hưởng đến cả bàn tay, không còn cấm nắm
một vật gì chắc chắn. Cũng vậy, bất cứ cơ phận nào (tim, gan, phổi, thận…) không
làm đúng chức năng hay không hợp tác với cơ phận khác hoặc bị yếu đi, cả cơ thể
sẽ đổ bệnh. Bộ óc không ‘cai trị’ nhưng điều phối mọi hoạt động để cơ thể ổn định
và phát triển. Muốn vậy, dân phải được tự do hầu thực hiện chức năng của mỗi cơ
năng, không bị gò ép chờ ‘trên’ quyết định giùm.
Như
thế, phân công được thay thế cho phân quyền. Quyền đi theo công để hoàn
thành công việc mình phụ trách chứ công không theo quyền. Quyền lúc đó có thể
xem là rights thay vì power để các phe phái phải cố giữ hay giành
giựt như hiện nay. Trong cấu trúc cơ năng-bản vị thì quyền lực không còn là trọng
tâm, mà công việc và hoàn thành công việc chung là quan trọng.
Bản
vị học thuyết rất tương hợp với các khám phá của ngành quản trị, hay các học
thuyết hiện đại như holacracy và systems theory.[16]
Bản
vị học thuyết mở ra một cách điều hành và quản lý mới, rất phù hợp với đời sống
hiện đại hoá và toàn cầu hoá ngày nay, từ tập thể nhỏ đến những tổ chức có quy
mô lớn, từ quốc gia đến quốc tế.
Điều
này đòi hỏi cần có một nền giáo dục nhân bản, phát triển con người toàn diện, để
không cần phải ép buộc răn đe mà mỗi người vẫn có thể tự chủ, tự giác và tự động hoàn thành trách nhiệm, góp sức
với các cơ năng khác hầu công việc chung được thực hiện,
hợp với lợi ích của cả tập thể, cũng rất phù hợp với văn hoá ‘cùng sống’ thay vì
tranh sống của dân tộc ta từ ngàn xưa.
Tạ
Dzu
(Tựa
được thay đổi từ Giới thiệu sơ lược về tư
tưởng Lý Đông A).
-----------------------------
Độc
giả có thể tham khảo các tài liệu của Lý Đông A trên trang Thắng Nghĩa Lý Đông
A, mục Tuyển tập Lý Đông A.
https://thangnghia.org/tuyen-tap-ly-dong-a/
Độc
giả cũng có thể đọc thêm các bài viết diễn giải về tư tưởng Lý Đông A trong mục
Diễn đàn Thắng Nghĩa trên trang Thắng Nghĩa Lý Đông A.
https://thangnghia.org/ddtn-moi/
[1] Phạm Khắc Hàm (1997). Triết Lý Lý Đông A. Nhóm Diễn đàn Địa lý
Nhân văn Việt Nam, Ch. 1.
[3] Sử-khoa-triết (sử học, khoa học,
triết học): Đúng ra là sử học, khoa học, đạo học. Đạo học cao sâu hơn và bao gồm
cả triết học.
[4] Lý Đông A (không ghi năm). Chìa Khoá Thắng Nghĩa. Học hội Thắng Nghĩa
2020 (4899 T.V.), tr. 5
https://thangnghiadotorg.files.wordpress.com/2021/01/chiakhoathangnghia.pdf
[5] Fritjof Capra and Pier Luigi Luisi
(2014). The Systems View of Life: A
Unifying Vision. Cambrige University Press.
[6]
Rick Potts. The Moral Dilemma We Face in the Age of
Humans. Smithsonian.com, dated October 7, 2014, accessed 26 January 2018,
[7] Rick Potts. The Moral Dilemma, Oct. 7, 2014.
[8] Lý Đông A (1943). Duy Nhân Cương Thường. Học Hội Thắng
Nghĩa 2016 (4895 T.V.), tr. 25.
Cương
thường không phải là ‘tam cương ngũ thường’, mà là đời sống đặc thù của loài
người.
https://thangnghiadotorg.files.wordpress.com/2018/03/duynhancuongthuong-version-layouted-apr2016.pdf
[9] Lý Đông A (1943). Sđd, tr 24.
[10] Lý Đông A (1945). Bình Sản Kinh Tế. Học hội Thắng Nghĩa
2017 (4896 T.V.), tr. 2-3.
https://thangnghiadotorg.files.wordpress.com/2020/01/binhsankinhte-version-layouted-nov2017.pdf
[11] Lý Đông A (1943). Việt Sử Thông Luận. Học hội Thắng Nghĩa
2016 (4895 T.V.), tr. 28.
https://thangnghiadotorg.files.wordpress.com/2019/02/vietsuthongluan-version-layouted-may2016-1.pdf
Lý Đông
A (1942). Duy Dân Cơ Năng. Học hội Thắng
Nghĩa 2018 (4897 T.V.), tr. 31.
https://thangnghiadotorg.files.wordpress.com/2019/01/bo5duydanconang-versionlayoutedjan2018.pdf
[12] Thomas Piketty (2017). Capital in the Twenty-First Century.
Belknap Press: An Imprint of Havard University Press. Reprint Edition.
[13] Lý Đông A (1945). Bình Sản Kinh Tế. Học hội Thắng Nghĩa
2017 (4896 T.V.), tr. 3.
https://thangnghiadotorg.files.wordpress.com/2020/01/binhsankinhte-version-layouted-nov2017.pdf
[14] Lý Đông A (1943). Duy Nhân Cương Thường. Học Hội Thắng
Nghĩa 2016 (4895 T.V.), tr 6. Chúng tôi
giản lược câu văn gốc cho dễ đọc.
[15] Trong tài liệu Duy Nhân Cương Thường, trang 33, Lý Đông A đã biên soạn cách thiết
lập Hiến pháp theo cơ năng hoá. Ông gọi là Cơ Năng Hiến Pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét